02.02.2016
Sau
khi Đại hội đảng lần thứ XII bế mạc, Nguyễn Phú Trọng có một cuộc họp báo ngắn,
30 phút, trong đó, ông thú nhận là chính ông cũng bị bất ngờ trước việc ông được
tái đề cử và cuối cùng, tái đắc cử chức tổng bí thư với (“gần như”) 100% phiếu
bầu. Quan trọng hơn, khi trả lời các câu hỏi của phóng viên, ông khẳng định hai
ý: Thứ nhất, tất cả các cuộc bầu cử trong đại hội đều đúng quy trình, đúng tiêu
chuẩn, và đặc biệt, rất dân chủ. Ông nhắc lại lời nhận định của ai đó trong đại
hội: “Đại hội này dân chủ đến thế là cùng.” Thứ hai, cuối buổi họp báo, ông
nhấn mạnh: “Hiện nay, bao nhiêu đoàn thể, tổ chức chính trị ra đời, nhưng vẫn phải có kỷ cương. Đất nước không có kỷ cương thì rối loạn,
mất ổn định, như vậy Việt Nam không thể phát triển.”
Trước
hết, về chuyện dân chủ, có thể Nguyễn Phú Trọng nghĩ và tin như thế thật. Có điều
cái nghĩ và niềm tin của ông về dân chủ khác hẳn với chúng ta. Đó mới chính là
vấn đề.
Với
Nguyễn Phú Trọng, dường như cứ hễ có người cầm lá phiếu bỏ vào thùng là có dân
chủ. Khi những lá phiếu ấy là phiếu kín, gắn liền với quyết định của người bầu,
ngay cả khi nó trái với ý định của cấp trên, tính chất dân chủ lại càng rõ nét.
Nhưng đó chỉ là hình thức, một trong những hình thức của dân chủ. Không thể đồng
nhất việc bỏ phiếu và dân chủ. Có vô số những cuộc bỏ phiếu mà vẫn không có dân
chủ. Như các cuộc bỏ phiếu trong các kỳ đại hội đảng, chẳng hạn.
Biểu hiện phi dân chủ
đầu tiên
trong các cuộc bầu cử ở đại hội đảng là: đó chỉ là những cuộc bầu cử trong nội
bộ 1.510 đại biểu của đảng cộng sản chứ không phải của dân chúng. Những đại biểu
ấy đều là đảng viên, được chính quyền trung ương hoặc địa phương chọn. Những đại
biểu ấy bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ
Chính trị và Tổng Bí thư. Ở đây chúng ta thấy rõ hai điều: Một, dân chúng hoàn
toàn bị loại trừ. Từ đầu đến cuối, dân chúng hoàn toàn không có tiếng nói nào cả.
Hai, ngay cả 4,5 triệu đảng viên trong cả nước cũng bị loại trừ: Các đại biểu
được lựa chọn từ trên xuống chứ không phải từ dưới lên.
Biểu hiện phi dân chủ
thứ hai
là ở quy chế bầu cử trong đại hội. Tất cả các ứng cử viên cho mỗi chức danh đều
được Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành Trung ương chỉ định. Không có ai được tự ứng
cử. Các đại biểu tham dự đại hội có thể đề cử nhưng người được đề cử phải xin
rút, sau đó, đại hội sẽ bỏ phiếu đồng ý hay không đồng ý với việc rút tên ấy. Tất
cả các đại biểu đều hiểu rõ người được đề cử ấy trái với ý muốn của Bộ Chính trị,
do đó, luôn luôn bỏ phiếu đồng ý, và hậu quả là tất cả những người được đề cử
trong đại hội đều bị loại. Như vậy, chúng ta thấy rất rõ, dù được quyền bỏ phiếu,
tất cả các đại biểu đều phải tuân lệnh của Bộ Chính trị. Như vậy, cái gọi là tự
do bỏ phiếu ấy chỉ là chuyện hình thức. Đó không phải là dân chủ.
Biểu hiện thứ ba của
tính chất phi dân chủ
nằm ở tiêu chuẩn bầu cử. Thường, dưới chế độ dân chủ, khi bầu giới lãnh đạo,
người ta căn cứ trên tài năng và tài năng ấy được thấy rõ nhất qua hai khía cạnh:
khả năng hoạch định chính sách và khả năng thực hiện chính sách. Ở Việt Nam, tất
cả những người được đảng đề cử đều không có cơ hội trình bày các chính sách của
mình bởi lẽ đơn giản là không có ai có thể có chính sách riêng cả. Hậu quả là mọi
lá phiếu, ngay cả khi được tự do lựa chọn, cũng chỉ căn cứ trên quan hệ xã hội
hay quan hệ chính trị là chính. Đó không phải là một sự lựa chọn dân chủ.
Tuy
nhiên, điều cần làm sáng tỏ là nhận định thứ hai của Nguyễn Phú Trọng: “Không
có kỷ cương thì rối loạn”.
Nhận
định ấy, thật ra, không có gì mới lạ. Ở đâu cũng thế. Ngay ở phương Tây, dưới
các chế độ dân chủ, người ta cũng đều nghĩ thế. Tự bản chất, mọi sự rối loạn đều
xuất phát, trước hết, từ sự thiếu kỷ cương. Vấn đề ở đây là: thế nào là kỷ
cương?
Ở
Tây phương, nói đến kỷ cương là nói, trước hết, đến luật pháp. Một xã hội kỷ
cương là một xã hội thượng tôn luật pháp, ở đó, mọi người, từ dân chúng đến giới
lãnh đạo, đều phải làm việc và hành xử đúng theo quy định của luật pháp. Không
có người nào, tuyệt đối không có người nào, kể cả những người lãnh đạo cao nhất,
được quyền đứng bên ngoài hay bên trên luật pháp. Với Nguyễn Phú Trọng, cái gọi
là kỷ cương ấy chỉ có nghĩa đơn giản là mọi người phải chấp nhận sự lãnh đạo độc
tôn và tuyêt đối của đảng Cộng sản.
Khi
đề cao kỷ cương, Nguyễn Phú Trọng chỉ muốn nhấn mạnh một số điểm: Một, Việt Nam
là một đất nước độc đảng; hai, với tính chất độc đảng ấy, Việt Nam không công
nhận bất cứ hình thức đối lập nào, kể cả hình thức đối lập nhẹ nhàng và hoà
bình nhất là sự phản biện của giới trí thức; ba, Việt Nam cũng không thừa nhận
sự tồn tại của xã hội dân sự vốn, tự bản chất, thoát ra ngoài sự lãnh đạo độc
tôn của đảng Cộng sản. Nói cách khác, với Nguyễn Phú Trọng, kỷ cương là đặt mọi
sự dưới sự kiềm chế và kiểm soát khe khắt của đảng của ông.
Với
cách hiểu như thế, khái niệm kỷ cương hoàn toàn trái ngược với khái niệm dân chủ
vốn đề cao sự đa nguyên và sự phân tán quyền lực. Có thể nói, theo cách hiểu ấy,
xã hội càng kỷ cương bao nhiêu, nó lại càng mất dân chủ bấy nhiêu.
Chỉ
trong một cuộc họp báo kéo dài 30 phút, Nguyễn Phú Trọng đã tự mâu thuẫn với
chính ông khi, một mặt, khoe khoang tính chất dân chủ của chế độ, mặt khác, lại
đề cao cái gọi là kỷ cương với cách hiểu là nhất nhất đều phải tuân theo sự
lãnh đạo của đảng. Vậy mà ông có vẻ kiêu hãnh về “trình độ lý luận” của mình
ghê lắm (khi ông cho tổng bí thư phải là người miền Bắc và có… lý luận!)
Chán.
-------------------------------------
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
CÁC TIN
KHÁC :
[29.01.2016]
[27.01.2016]
[24.01.2016]
No comments:
Post a Comment