Lê Văn Nghĩa
18-11-2015
Lâu lắm
rồi, chữ phơi-dơ-tông (feuilleton- Truyện dài kỳ) không còn xuất hiện trên các
trang báo Việt Nam. Nếu như các chuyên mục với những thể loại điều tra,
phóng sự, bình luận, viết tin…được dạy, nghiên cứu, đề tài luận văn thạc sĩ, tiến
sĩ thì phơi-dơ-tông truyện dài kỳ (TDK) không được nhắc đến và nhìn nhận như một
chuyên mục đã từng tồn tại trên báo chí Việt Nam từ xa xưa và khoảng năm
1987 – sau ‘Ván Bài Lật Ngửa’ trên báo Tuổi Trẻ, chuyên mục này đã biến mất.
Báo chí hiện nay không còn chuyên mục TDK nữa!
Tạm thời
định nghĩa phơi-dơ-tông là Truyện Dài kỳ, chưa in thành sách, được đăng hàng
ngày, hoặc hàng tuần trên báo, hay tạp chí, là một ‘phát minh’ của làng báo
Pháp từ thế kỷ 19. Tờ báo ‘Siècle’ (Thế kỷ) vào năm 1835 đã đăng một truyện dài
kỳ về phong tục ở Tây Ban Nha. Thật đáng tiếc, truyện dài kỳ nầy chỉ đăng được
4 kỳ thì ‘ngủm củ tỏi’ vì bạn đọc chê không hấp dẫn. Năm sau, đại văn hào
Balzac cũng thất bại khi đăng truyện ‘Vielle fille’ (Cô Gái Già). Nhưng vẫn hơn
đồng nghiệp đi trước đến 11 kỳ. Cũng cùng lý do: Độc giả đòi hỏi truyện phải có
tính chất giải trí, hấp dẫn. Phải chi, Balzac đặt tên truyện là ‘Cô gái trẻ’
thì có thể ngon lành rồi. Có lẽ, thể loại nầy còn hơi thở là nhờ công của
tờ báo ‘Journal des Debats’ đăng bộ truyện của Eugène Sue ‘ Les Mystères de
Paris’ (Những bí mật của Paris - truyện này đã được xuất bản ở Việt Nam). Trong
thời gian đăng truyện nầy thì số lượng báo tăng lên vùn vụt. Cạnh tranh, tờ
‘Constitutionel’ cũng mua bộ truyện ‘Le Juif errant’ (tạm dịch Người Do Thái
Lang Thang) cũng của tác giả nầy. Báo đang in ra có 3000 đã vọt lên 40.000 số mỗi
ngày.
Sau nầy Alexandre Dumas (tác giả những bộ tiểu thuyết phơi-ơ-tông điển hình Les Trois Mousquetaires,
Le Comte de Monte-Cristo)
được xem là một trong những người viết truyện dài kỳ nổi tiếng nhất của Pháp.
TRUYỆN DÀI KỲ THỜI TRƯỚC 75
Vì người
Việt Nam học cách làm báo từ người Pháp, những tờ báo Việt Nam thời kỳ đầu
cũng đã có chuyên mục truyện dài kỳ để …bán báo. Theo nhà văn Vũ Bằng: “Phong
hóa được hoan nghênh vì báo nầy đã đưa ra một cái mới là tiểu thuyết dài và tiểu
thuyết ngắn có tính chất tư sản ( phù hợp với người dân lúc đó)” ("Báo
chí Bắc Việt 34-54", Văn Học (Sài Gòn))
Theo Lại
Nguyên Ân thì thời kỳ rực rỡ nhất của báo chí tiếng Việt trong khoảng năm 1913
– 1914 đến 1945 là báo văn hóa, văn nghệ, văn chương. Nền văn chương hiện đại của
tiếng Việt ra đời và tựa một phần trên báo chí. Phong trào thơ mới cũng được
phát động, cổ động trên báo chí. Các tác phẩm được công bố trên báo chí trước
khi xuất bản thành các tập sách.
Ở một
góc nhìn khác, dịch giả Thúy Toàn cho rằng không chỉ có thơ, văn mà cả văn học
dịch cũng đã xuất hiện nhờ báo chí. Dịch giả này dẫn chứng: "Tờ Tiếng Dân
ra đời năm 1927 ở Huế, thì ngay số đầu tiên đã đăng tải bản dịch Phục sinh của
Hoa Trung. Bản dịch Phục Sinh được đăng tải liên tiếp từ số đầu tiên kéo dài tới
số thứ 86".
Trong
khoảng thời gian 1950-1954, trên các báo Liên Hiệp đã xuất hiện cây bút Hoàng
Ly với ‘Tiếng Địch Trên Sông’, ‘ Hận Loa Thành’, ‘Kỹ Nữ Sông Kỳ Cùng’ Nguyễn Quỳnh viết một loạt truyện dã sử trên báo Tia Sáng, còn Bạch Diện là tác giả nhiều bộ
dã sử kéo dài mấy năm liền trên các báo Liên Hiệp, Giang Sơn…
Ở Nam Kỳ, làng báo Sài Gòn cũng đã đọc TDK khoảng cuối
những năm 1920. Từ năm 1924, Phú Đức đã xuất hiện ‘Câu Chuyện Canh Trường’ trên
báo ‘Trung Lập’ và sau đó là ‘Căn Nhà Bí Mật’. Bên báo ‘Công Luận’ thì có Nam
Đình. Năm 1929, Hồ Biểu Chánh đã xuất hiện ‘Vì Nghĩa Hay Vì Tình’ hàng tuần
trên Phụ Nữ Tân Văn của ông Nguyễn Đức Nhuận. Từ sau năm 1945 trong làng báo Sài Gòn, TDK giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành một tờ báo. Khi xuất bản một tờ
báo, các chủ báo, nhà quản lý phải nghĩ ngay đến các tác giả viết TDK ăn khách.
Theo nhà văn Vũ Hạnh ‘…đặc biệt là tiểu thuyết trang trong (nhật báo)
đủ các thể loại’- ( 'Báo chí hôm nay 1954-65', Bách Khoa số 217
ngày 15.1.66). Cũng trong tạp chí Bách Khoa số nầy nhà văn Võ Phiến nhận định
‘…chiếm nhiều chỗ nhất là những truyện để giải trí…’.
Tại sao
các nhật báo Sài gòn đều ‘sống chết’ với chuyên mục nầy? Lý do đơn giàn là TDK
là một chuyên mục hấp dẫn với những người bỏ tiền ra mua báo. Một tờ báo có thể
có đến bốn TDK đủ các thể loại như tâm lý xã hội, truyện trinh thám, truyện ma,
võ hiệp kỳ tình, truyện Tàu…để đáp ứng nhu cầu của đủ thể loại độc giả. Một tờ
báo nào đó chỉ cần có một TDK hay, ăn khách, sẽ làm cho tờ báo đó sống vững,
sống mạnh khỏe, chủ báo chắc chắn có xe hơi nhà lầu. Đó là trường hợp của các tờ nhật báo Sài Gòn Mới của
bà Bút Trà với TDK của bà Tùng Long, Thần Chung với tiểu
thuyết Cô Bạch Mai do chính Chủ nhiệm Nam Đình viết, những năm 1951, 1952. Ngay cả những tờ báo
có tiếng về ‘lập trường chính trị’ như ‘Sống’, Chu Tử cũng phải mời bà Tùng
Long viết TDK. Hoặc tờ ‘Xây Dựng’ của linh mục Nguyễn Quang Lãm thì phải nuôi
Duyên Anh với ‘Điệu Ru Nước Mắt’, một truyện du đãng thời thượng lúc đó được
cho là viết dựa theo cuộc đời trùm du đãng Đại Ca Thay.
Trong
‘Hồi Ký Bà Tùng Long’ có ghi lại bài viết của ký giả Trần Quân của tờ Saigon
Times ‘…cái gì trong tờ báo đã khiến cho bà (độc giả) quan tâm chiếu cố đến
vậy, bà sẽ nói với bạn không một chút ngần ngại là không phải những chuyện
tranh đấu không ngừng của Lumumba, hay cuộc tranh chấp không bao giờ chấm dứt của
Phoumi và Phouma, và cũng không phải sự ra đời của một hoàng nam kế vị ngai
vàng của xứ Iran, mà chỉ là tiểu thuyết ra hằng ngày trên báo của một cây bút nữ
được cả nước nghe tên, được cả nước đọc với bút hiệu Bà Tùng Long… ‘
Người đọc
TDK lúc đó là ai? Vẫn theo nhận định của Trần Quân ‘Độc giả của bà (Tùng
Long) thuộc nhiều thành phần khác nhau, phần đông ở giới lao động, ít học,
những người nội trợ muốn tìm cái chìa khóa hạnh phúc, những kẻ không có phương
tiện để đến trường nghe lời giảng dạy của các thầy giáo, cả những quân nhân ở
những vùng xa xôi hay những thủy thủ thiếu mái ấm gia đình’. Đồng tình
với nhận định nầy, một tác giả viết TDK chuyên nghiệp với bút hiệu Gã Thâm
viết ‘Độc giả tiểu thuyết phơi-ơ-tông những
năm xưa ở Sài Gòn đa phần là phụ nữ. Ngoài việc mỗi ngày đi chợ, thường là ra
khỏi nhà vài bước là có chợ đầu xóm bán đủ thức ăn, ngoài việc nấu ăn, trông
con, những phụ nữ ấy có nhiều thì giờ nhàn rỗi, họ đọc tiểu thuyết đăng từng
ngày trong các nhật báo. Họ là lớp độc giả chính, trung thành của tiểu thuyết
phơi-ơ-tông, và họ rất chịu bỏ tiền mua báo. Báo nào có tiểu thuyết được họ đọc
là báo bán chạy. ‘
Theo
tôi, có lẽ hai tác giả nói trên vẫn còn phiến diện khi không nhắc đến những độc
giả là đàn ông ở nhiều lứa tuổi và thành phần khi họ thích đọc những truyện
trinh thám như ‘Bàn Tay Máu’ của Phi Long (Ngọc Sơn), truyện võ hiệp kỳ tình ‘Kỹ
nữ Gò Ôn Khâu’ (Hoài Điệp Thứ Lang, tức nhà thơ Đinh Hùng), ‘Lệnh Xé Xác’ (Lã
Phi Khanh, tức Vũ Bình Thư) và nhiều tầng lớp trí thức mê say truyện chưởng của
Kim Dung. Họ đã hàng ngày chờ đợi ‘ Cô Gái Đồ Long’, ‘Anh Hùng Xạ Điêu’, ‘Tiếu
Ngạo Giang Hồ’…của ‘Cấm Dùng’ Tiên Sinh (Kim Dung) qua cách chuyển ngữ rất
giang hồ hành hiệp của Hàn Giang Nhạn. Nói không quá, nhật trình lúc đó sống nhờ
truyện chưởng. Nhiều người mua báo hàng ngày chỉ vì muốn đọc truyện chưởng
dài kỳ của Kim Dung mà thôi.
SỐNG BẰNG TRUYỆN DÀI KỲ
Một tờ
báo được độc giả đón nhận nhờ TDK hấp dẫn thì không những đời chủ báo lên hương
mà các tác giả viết TDK vẫn có thể ung dung sống thoải mái, thậm chí có người
còn đi xe hơi và nuôi cả gia đình như Bà Tùng Long xác định viết TDK để
nuôi con. Và năm 72 bà đã ngừng viết vì các con đã lớn (theo Hồi Ký Bà
TL) Họ-nếu gọi là nhà văn- thì đây chính là những nhà văn đã sống bằng
chính nhận bút chứ không cần lương cố định của một tòa soạn nào. Theo tác giả
Kiều Giang tự nhận xét ‘Tôi trở thành thợ viết tiểu
thuyết phơi-ơ-tông
chuyên nghiệp, tôi sống bằng việc viết truyện phơi-ơ-tông.’ Lúc ấy, trong làng
báo Sài gòn đã xuất hiện những người viết TDK chuyên nghiệp. Họ chỉ viết
TDK để sống và chỉ sống bằng việc viết TDK. Viết xong, nếu ăn khách, sẽ được nhà xuất bản mua để in thành sách,
nhiều tác giả TDK tự xuất bản tác phẩm của mình như Ngọc Linh, Duyên Anh. Thí dụ như
trường hợp của Dương Hà, sau khi thành công với TDK đầu tay ‘Bên dòng Sông Trẹm’,
từ năm 1952 Dương Hà chuyên viết tiểu thuyết cho nhật báo
Sàigòn mới đề
sống cho đến khi báo nầy bị đóng cửa vào năm 1964.
Có lẽ
thấy viết TDK đăng nhật trình hàng ngày vừa có tiền sống lại vừa phổ biến được
tác phẩm nhanh và rộng nên nhiều nhà văn được cho là ‘chính thống’ như Mai Thảo,
Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thụy Long … cũng lao vào viết truyện
dài kỳ cho các nhật và tuần báo. Nhờ TDK mà cuộc sống của họ dư dã và ổn định.
Họ sống được là vì mỗi ngày họ phải cung cấp TDK cho ít nhất là hai tờ nhật báo
như bà Tùng Long viết trong hồi ký ‘Anh thử nghĩ xem tôi còn thì giờ đâu để
mà viết cho Sống nữa chớ? Tiếng Vang rồi Sàigòn Mới, rồi hai tờ báo tuần Văn
Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Đàn (làm thư ký tòa soạn), Phụ Nữ Ngày Mai với một
truyện dài và một truyện ngắn hằng tuần’.Nhà văn Phú Đức, tác giả ‘Châu Về
Hợp phốʼ được cho là người viết
TDK với kỷ lục viết cho năm tờ báo hàng ngày. Do đó, đích thân ông phải
đi giao bài cho từng tòa soạn vì sợ cảnh ‘râu ông nọ cắm cằm bà kia’. Đã từng
có nhà văn do đãng trí đưa nhầm truyện viết cho báo B sang báo A nên hôm
đó độc giả không hiểu tại sao anh Hùng đang đưa em Loan đi chơi tửu lầu Đồng
Khánh thì lại xảy ra cuộc đánh ghen của hai bà ở tận xứ chó ăn đá gà ăn muối Chắc
Cà Đao, và ngược lại. Để tránh tình trạng này, nhà văn Sơn Nam đến từng tòa
báo, ngồi vào bàn viết yêu cầu nhân viên tòa soạn cho đọc truyện xem lại ngày
hôm trước đã viết đến đoạn nào để ráp viết tiếp cho chắc ăn. Vì có lần sau khi
truyện đã đăng báo thì ông chủ bút cho biết là nhân vật X. lần trước đã bị ông
khai tử rồi sao bây giờ còn xuất hiện. Thế là ông tìm cách cho nhân vật ‘hồi
dương’ một cách hợp lý. Ngay cả Kim Dung cũng lâm vào tình trạng cho nhân vật
võ hiệp bị chết vì đao kiếm đoạn trước sau đó xuất hiện và đánh tiếp ngon ơ!
Bạn đọc
sẽ không thắc mắc tại sao có sự nhầm lẫn nầy nếu như bạn đã biết các cây bút
TDK thường viết đủ số chữ cho phần ‘đất’ trên trang báo chứ ít khi họ viết
thành một quyển tiểu thuyết trước rồi lấy ra đăng lại như bây giờ. Chính vì lý
do nầy mà nhà văn không được chểnh mảng vì bị ‘thúc vào đít’ hàng ngày bởi
trang báo đang để trắng, các ấn công, thầy ‘Cò’ đang chờ bài. Theo họ khi bị
‘rượt đuổiʼvào
giờ chót như vậy thì họ mới có ‘yên sĩ phi lý thuần’ mà viết thật hay. Và nhờ
viết hàng ngày mà họ có thể đo lường sự quan tâm của bạn đọc về câu chuyện để
có ý và hứng thú viết tiếp cho ngày hôm sau. Ông Nam Đình, đang làm chủ báo
nhưng lại là cây bút viết TDK, hàng ngày thường la cà ở các sạp báo để hỏi người
bán hoặc độc giả về câu chuyện và các nhân vật của ông xuất hiện trên báo ngày
hôm nay. Có độc giả tức tối vì nhân vật nữ bị ám sát thì hôm sau ông liền cho
nhân vật nữ sống lại một cách rất thuyết phục – cũng như trong phim, nhân vật
chính chết thì lấy gì mà xem!
Giao
bài đủ số trang, số chữ là sự thuận lợi chỉ dành riêng cho người viết chứ các
chủ báo, chủ bút thì lên ruột từng đoạn. Khi gần hết hạn đưa bài xuống nhà in, ấn
công hối thúc thì chủ bút chỉ lạy trời cho ông ‘Phơi’ xuất hiện. Và khi có bản
thảo viết tay chi chít những con chữ thế là một guồng máy bắt đầu náo loạn từ
thợ sắp chữ, sửa lỗi đến thợ bản vổ. Thỉnh thoảng khi không nhận được bài thì
chỗ trống đó sẽ được trám vào bằng bài thơ thẩn, sưu tầm nào đó với giòng chữ
cáo lỗi bạn đọc ‘Vì tác giả bệnh bất ngờ nên truyện phải tạm ngưng hôm
nay. Mong bạn đọc thông cảm và chờ đọc vào số báo ngày mai’. Đến chế độ Nguyễn
Văn Thiệu, các bài viết trái ý kiểm duyệt sẽ bị đục bỏ, nên tranh thủ và cũng để
châm biếm sự kiểm duyệt báo chí các tòa soạn thường dùng bốn chữ ‘Tự Ý Đục Bỏ’
làm cho bạn đọc tưởng truyện đang có ‘vấn đề’ hay thiên cộng. Còn nếu như nhà
văn bị bệnh dài ngày thì những người trong tòa soạn sẽ cùng nhau viết tiếp truyện
đang dang dở. Các nhân vật ra sao thì ra để tác giả hết bệnh tự xử trí. Đây là
trường hợp của truyện dài "Một Triệu Đồng" của nhà báo Như Phong đăng
trên nhật báo Tự Do, khi Như Phong bị lao phổi, do truyện đang ăn khách, toà soạn
quyết định tiếp tục. Trong hồi ký ‘Tôi Làm Báo’ nhà văn nhà giáo Tạ Quang Khôi
kể lại: " Ông Nguyễn Hoạt yêu cầu mỗi người viết một đoạn để chờ
ông Như Phong đi làm lại". Và truyện dài của nhà báo Như Phong đã
được nhà thơ Đinh Hùng, nhà báo Nguyễn Hoạt và sau đó là Tạ Quang Khôi viết
thay cho tới khi nhà báo Như Phong trở lại toà báo.
Vì phải
viết cho nhiều tờ báo trong một ngày nên một số ít nhà văn viết TDK đã nhờ người
viết thuê ẩn danh để họ ký tên (bây giờ gọi là "ghost writer"). Việc
nầy ít khi được tiết lộ công khai vì thỏa thuận ngầm giữa hai bên nhưng không
phải là không có. Theo nhà văn Vũ Bằng, Lê Văn Trương và chính ông (Vũ Bằng)
cũng nhờ người viết thuê rồi đứng tên là tác giả: ‘Có nhiều truyện của Lê
Văn Trương viết mà không phải chữ của Trương. Tôi bảo anh chính là ‘mọi’ viết
chớ không phải là anh viết thì lập tức anh thề liền ‘tôi mà nói dối chết một đời
cha ba đời con’. Những nhà văn , nhà báo Âu Mỹ nuôi ‘mọi’ để viết rồi ký
tên mình vào đó là chuyện thường thấy, có gì lạ đâu. Tôi đã từng có lúc viết
không kịp cũng phải nhờ ‘mọi’ giúp. Đó là thời kỳ 1940-42 tôi đưa ra loạt bài
nói về các thứ ma quỷ, siêu hình học, Một ông giáo bây giờ đã qua đời
giúp việc cho tôi hàng tháng lúc tôi viết về loại báo Tabloid của Mỹ đăng trên
‘Trung bắc chủ nhật’. Và lúc tôi nhận viết mỗi tuần một ‘Truyện có thực’ và mỗi
tháng một truyện dài hoặc để đăng ‘Phổ thông bán nguyệt san’ hoặc đăng báo
‘Truyền Bá’ (Văn Học- số 74 –sài gòn 1967)
NHỮNG CÂY BÚT TRUYỆN DÀI KỲ CỦA LÀNG
BÁO SÀI GÒN
Tôi
chưa có đủ tài liệu để xác định xem người viết TDK đầu tiên trong làng báo Sài
Gòn là ai nhưng, tạm thời, theo dòng thời gian thì một trong những tác giả viết TDK xưa của Sài
Gòn là Hồ Biểu Chánh, tác giả những bộ truyện nổi tiếng Tỉnh Mộng, Cay Đắng Mùi
Đời, viết năm 1923, Ngọn Cỏ Gió Đùa, viết năm 1926. Tác giả thứ hai là Phú Đức với những bộ truyện đúng kiểu tiểu thuyết
phơi-ơ-tông như Châu Về Hiệp Phố, viết năm 1926, Căn Nhà Bí Mật, viết năm 1929,
Tình trường huyết lệ, viết năm 1930..vv.
Riêng
nhà văn Phú Đức được cho là người chiếm kỷ lục viết TDK cho năm tờ báo một
ngày. Xuất thân từ nghề ‘gỏ đầu trẻ’, đang yêu đương phơi phới, chàng trai tỉnh
Gia Định bèn dàn trải mối tình thơ mộng của mình bằng TDK đầu tiên mang tên
‘Câu Chuyện Canh Trường’ trên báo ‘Trung Lập’của ông De Lachevrotière do ông
Trương Duy Toản làm chủ bút vào năm 1924. Ai mà dè, từ TDK đầu tiên đó, Phú Đức
được ông Trương Duy Toản tiếp tục viết TDK ‘Căn Nhà Bí Mật’, ‘Châu Về Hiệp Phố’.
Cả hai bộ TDK nầy đã mang lại cho báo Trung Lập số độc giả kỷ lục trong làng
báo thời ấy. Sau đó, ông được nhà báo Nam Đình mời về báo Công Luận làm chủ
bút. Ở tờ báo nầy , mang danh là chủ bút, ăn lương ngang với Đốc Phủ Sứ nhưng
chỉ có việc duy nhất là viết TDK ‘ Tiểu Anh Hùng Võ Kiết’ rồi ngồi lên xe hơi
xì-gà mà rong chơi với các người đẹp ái mộ khắp Sài Gòn.
Sau thời
kỳ ‘nhung lụa’ ngót nghét cũng gần 20 năm, Phú Đức phải còng lưng viết TDK cho
5 tờ báo mỗi ngày. Ông làm việc như công chức, đúng giờ, đúng khắc. Mỗi buổi
sáng, ông đến nhà một bạn làng văn, đóng đô ở đó viết cho đến xế trưa là đã
xong số lượng trang viết cho các tờ báo đang chờ bản thảo của cây bút được quảng
cáo là ‘…Đứa con tinh thần mà tác giả đắc ý nhất, sau bao nhiêu năm dầy công
thai nghén một cốt truyện ly kỳ, rung rợn, quyết làm cho độc giả càng đọc càng
mê say, cảm động…’. Nhưng thật ra những đứa con tinh thần nầy chính là
những TDK đã đăng trên Trung Lập và Công Luận rồi được ông xào nấu lại từng kỳ
cho các tờ báo đang đói TDK. Hậu quả là vào năm 1952, một tuần báo đã viết bài
với cái tít giật gân là Phú Đức: Tiểu Thuyết Gia Bổn Cũ Soạn Lại’. Một nhà
văn thiếu nhi cũng là một nhà báo kênh kiệu đã nhận xét ‘Trong lịch sử làm
báo duy nhất một nhà văn Phú Đức quyến rũ độc giả ròng rã mấy năm bằng Quách si
ma, nhân vật kỳ bí của triền miên phơi ơ tông Châu về Hiệp phố. Nhật báo của
ông là … Châu về Hiệp phố. Độc giả tranh nhau mua báo của ông chỉ để theo bước
chân đi của Quách si ma! Sức quyến rũ của ngòi bút Phú Đức thật đáng nể. Thời
đó, chỉ có một người viết TDK đứng sau Phú Đức là Nam Đình. Dù là chủ tờ báo Thần
Chung (1950) cũng thuộc loại có ‘số má’ nhưng ông đích thân viết TDK hàng ngày.
Nếu Phú Đức được làng báo lúc ấy phong là người viết TDK ‘Bổn cũ soạn lại’ thì
Nam Đình được tặng danh hiệu là ‘đại hải trường giang’. Từ TDK ‘Bà Lớn’ qua
‘Cháu Bà Lớn’ rồi ‘Cô Bạch Mai’ tới ‘Cô Bạch Mai’ tới ‘Cháu Ngọc’ Nam Đình đã cứu
tờ Thần Chung đang từ chỗ sắp đình bản vươn lên thứ hạng nhất nhì lúc đó. Trước
đó thì có ‘Kòn Trô’(1941), ‘Sương Giò Biên thùy’(1948) của nhà văn Lý Văn Sâm.
Nếu bên
Thần Chung có ‘Cô Bạch Mai’ thì năm 1952 bên Sài Gòn mới
của bà Bút Trà xuất hiện ‘Bên Dòng Sông Trẹm’ của cây bút mới toanh Dương Hà.
Do nổi tiếng nên truyện được xuất bản thành sách ngay sau khi
đăng hết trên báo. Không
thua kém, bên báo Tiếng Chuông xuất hiện Ngọc Sơn với những TDK
‘ Ngày Về’, ‘Hồng và Cúc’, ‘Sau Dẫy Nhà Lầu’. Sau 1954 Ngọc Sơn chuyển qua viết TDK trinh thám kỳ tình ‘Bàn Tay Máu’ (có
tranh minh họa kèm theo) với bút hiệu Phi Long trên báo Sài Gòn Mới.
Nói đến
TDK tâm lý xã hội ăn khách nhất lúc đó không thể kể đến hai cây bút nổi tiếng của
những năm 1950 là bà Tùng Long, bà Lan Phương. TDK của các nữ sĩ nầy
đều có nhân vật chính là phụ nữ, thường gặp hoàn cảnh éo le nhưng đều vượt qua
nghịch cảnh và kết truyện đều có hậu. Tất cả TDK của hai bà đều đề cao tình
nghĩa gia đình, đề cao người phụ nữ nên đa số độc giả là nữ đều mê mẩn. Sau năm 1965 nhật báo Sài Gòn có mấy cây viết phơi-ơ-tông nữ nổi tiếng: Túy
Hồng, Lệ Hằng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Tôi đọc được trong một cuộc phòng vấn
trên báo bà Nguyễn Thị Hoàng cho biết trên bàn viết lúc nào củng có hai …máy
đánh chữ dành để viết hai truyện khác nhau cùng lúc. Khi viết bị bí truyện nầy
thì nhảy sang viết truyện kia.
Không
thua bà Tùng Long, Lan Phương, các cây bút nam giới cũng có Sơn Nam, Bình
Nguyên Lộc với những truyện dài về sông nước và con nguời Nam bộ. Bình Nguyên Lộc
đăng đoạn đầu truyện dài kỳ ʻPhù
sa’, đăng trên
báo Thanh Niên năm
1943, với tên ʻDi dân
lập ấpʼ. Ông
đã mê hoặc được độc giả nhờ
truyện nầy. Sau đó, ông viết lại được độ 1/6 tác phẩm, cho in trên tuần báo
Nhân Loại. Theo lời Bình Nguyên Lộc, Phù sa là "tác phẩm quan trọng nhất"
của ông, làm sống lại cuộc "tiến vào Nam" của đồng bào Nam-Ngãi để dựng
nên miền Lục Tỉnh. Ngọc Linh với ‘Như Hạt Mưa Sa’, Lê Xuyên với
‘Chú Tư Cầu ‘ (Sài Gòn Mai năm 1961), Dân Việt với TDK của Chu Tử: Sống, Yêu, Tình, Loạn xuất hiện năm 1961, 1962. An Khê với
‘ Hai Chuyến Xe Hoa. Lã Phi Khanh, với TDK Lệnh Xé Xác trên báo Tin
Sáng. Văn
Quang với ‘Đời Chưa Trang điểm’, Nguyễn Đình Toàn với ‘Áo Mơ Phai’,Trọng
Nguyên. Dương Trữ La, Lê Minh Hoàng Thái Sơn…đa dạng sắc màu thể loại TDK trên
các nhật báo. Ngay cả nhà thơ như Bùi Giáng cũng viết TDK. Khi tìm tài liệu viết
bài nầy, tôi bất ngờ nhất là nhà thơ Bùi Giáng cũng viết TDK...võ hiệp. Theo hồi
ký của tác giả Kiều Giang thì ‘Bùi Giáng cũng có thời kỳ viết bộ truyện
phơi-ơ-tông đăng trên nhật báo Sống năm 1970. Anh thường cho hai nhân vật nam nữ
khơi khơi dùng thật nhiều hai chữ ‘liên tồn, tồn liênʼ trong truyện, đại
khái:
“Nàng có sắc đẹp tồn liên..
“Nàng nở nụ cười liên tồn…’
‘
Đa tạ đại hiệp đã có dạ tồn liên…’
Được biết,
vì là nhà thơ nên Bùi tiên sinh đã thất bại trong việc viết TDK. Do ‘liên’ (tưởng
) hoài nên TDK của ông không ‘tồn’ (tại) được. Không dễ dàng gì để trở thành một
người viết TDK ăn khách nếu không biết kỹ thuật ‘câu rê’ sao cho hấp dẫn mà thời
đại ta gọi là câu ‘Viu’ (View). Một bí quyết gọi là ‘nhà nghề’ của Phú Đức là
ông viết đến chỗ gay cấn thì cắt ngang, bắt độc giả chờ ngày mai đọc tiếp. Nam
Đình thì ra sạp báo, lén nghe ý kiến người đọc để sửa chữa và bổ khuyết cho
nhân vật. Viết dài hay ngắn đoạn nào đó là tùy theo sự thích thú của bạn
đọc. Câu rê thuộc loại cao thủ là Lê Xuyên. Trong TDK ‘Chú Tư Cầu’, tác
giả nầy cho nhân vật nam từ lúc tay run run chuẩn bị mở nút ‘bóp’ (một loại nút
áo bà ba miền nam) cho đến lúc mở được đã kéo dài 15 kỳ nhờ vào kỹ thuật viết đối
thoại bằng những từ bình dân Nam bộ, linh động và hấp dẫn. Theo kết luận của một
nhà văn lão thành thì ‘…Tuy đăng từng ngày, mỗi ngày một tiểu đoạn,
nhưng cách viết và lối dựng truyện phải là những bí quyết sắc bén giam nhốt không
rời thần trí và ham thích người đọc, đã bước chân qua cửa truyện, là không thể
trở lui, phải từng số từng ngày đợi chờ đọc tiếp. Mở đầu đã đầy đặc những tình
tiết bốc cháy từ những dòng mê đắm thứ nhất. Chuyển đoạn vừa đố vừa giảng. Chuyện
đang vòm trời hiện tại thoắt đã chân trời tương lai. Bằng những diễn biến bây
giờ, bằng hồi tưởng, đột ngột kéo ngược hết về thì quá khứ. Bất ngờ cắt đứt một
sáo trộn đóng khung trong một cảnh trí này, ném bỗng sáo trộn ấy vào một cảnh
trí hoàn toàn khác biệt. Đang thuật đang tả chuyển thành viết thư, nghiêng sang
nhật ký. Và thuật tả cũng luôn luôn phải đối thoại len vào. Trăm nghìn xảo thuật
hâm nóng cảm giác, làm ngỡ ngàng mọi tưởng trước, sai lạc mọi phán đoản ấy, đã
được chuyên chở bộn bề vào tiểu thuyết đăng báo chúng ta hiện nay, bằng con đường
điện ảnh, bằng vay mượn và phối hợp cách thức viết với cách thức thực hiện phim
ảnh. Nói chung, đó là kỹ thuật của loại phim truyện trinh thám, nghẹt thở, giật
gân, bao giờ cũng tạo được tác dụng làm căng thẳng giác quan ta.’
Đó là về
mặt kỹ thuật. theo tôi, một yếu tố quan trọng để một TDK thành công là tính chất
giáo dục, nhân văn. Tất nhiên, khi viết nhà văn TDK luôn đặt yếu tố hấp dẫn, giải
trí lên hàng đầu nhưng nội dung truyện vẫn là cái thiện thắng cái ác, ở hiền gặp
lành, đầy đủ ‘nhân, lễ , nghĩa, trí, tín’. Họ thích nhân vật chính là thiếu nữ xinh đẹp, hiền hậu, con nhà nghèo – nghèo
mà vẫn giữ được trong sạch – bị rơi vào những cảnh ngộ oan trái nhưng sau cùng
vượt thắng được nghịch cảnh, gặp tình yêu. Hoặc nhân vật chính là một thiếu nữ
con nhà giàu sang yêu một chàng trai nghèo nhưng lương thiện.Sau cùng tình yêu phải thắng, đôi tình nhân sau
trăm cay, nghìn đắng, sẽ thành vợ, thành chồng, sống hạnh phúc bên nhau mãi
mãi. Nếu
truyện có tướng cướp thì tướng cướp sẽ hoàn lương, nếu có kẻ giết người thì kẻ
đó sẽ chết, đi tù hoặc đi tu để trả giá cho hành động của mình. Đọc TDK, người
đọc sẽ luôn thấy được sự hướng thiện của tác phẩm, những bài học đạo đức đến từ
những niểm hạnh phúc, nỗi đau, cách xử thế của từng nhân vật. Tóm lại khi chữ Hết
được đặt dưới TDK, người đọc đã tìm ra Chân, Thiện, Mỹ. Bà Tùng
Long đã kể trong hồi ký ‘ Có lần tôi đang viết một câu chuyện dài, có
chiều hướng không cho hai nhân vật yêu nhau đi đến hôn nhân, thì một buổi sáng
vừa để cái cặp lên bàn, toan ngồi lại làm việc thì bà Bút Trà– chị dâu của tôi
mà cũng là chủ nhiệm của báo Sài Gòn Mới lúc bấy giờ – cho người mời tôi vào và
nói:
- Thím không định cho Yến và Thanh kết hôn sao?
Thấy tôi cười mà không trả lời thì chị tôi nói:
- Thím nên cho tụi nó kết hôn với nhau, như thế mới hợp tình hợp lý và mới đúng với cái tên tiểu thuyết mà thím đặt Gương Vỡ Lại Lành.’
- Thím không định cho Yến và Thanh kết hôn sao?
Thấy tôi cười mà không trả lời thì chị tôi nói:
- Thím nên cho tụi nó kết hôn với nhau, như thế mới hợp tình hợp lý và mới đúng với cái tên tiểu thuyết mà thím đặt Gương Vỡ Lại Lành.’
LÀ NHÀ VĂN HAY NHÀ BÁO?
Dù những
TDK trên các nhật báo đã làm say sưa bạn đọc nhưng người viết vẫn không được
xem là nhà văn, thậm chí còn có khuynh hướng xem đây là ‘tiểu thuyết ba xu’.
Khuynh hướng nầy đã có từ những nhà văn Pháp vào cuối thập niên thế kỷ 19. Nhà
văn Pháp Eugène Sue với những tác phẩm nổi tiếng lúc ấy vẫn chỉ được xem là
Feuilletonniste chứ không gọi là nhà văn. Còn ở Sài Gòn thời ấy,
theo Trần Quân (Hồi Ký Bà Tùng Long) ‘…Mặc dù không có một quyển sách nào của
bà được các nhà phê bình đem ra phê bình như một tác phẩm văn học của những nhà
văn được coi là trí thức lúc bấy giờ, chính bà Tùng Long cũng tự nhận mình
không phải là một nhà văn…’
Có lẽ
nhà văn Võ Phiến là người không xem trọng TDK, như N.H.Q viết : ‘ Trước
1975, dù biết phơi-dơ-tông rất được ưa chuộng, dù hiểu nguyên nhân của sự ưa
chuộng ấy nằm ở phần đàm thoại, song tự thâm tâm, tôi đoán, Võ Phiến có chút
khinh rẻ loại văn chương nhật trình mà ông, cũng như nhiều người khác nữa,
không coi là văn chương thực sự.’
Trong một
bài viết của mình, nhà văn Võ Phiến đã cho rằng các nhà văn viết TDK đã đi vào
xu hướng bình dân:
‘…Mặt khác, viết tân văn tiểu thuyết đăng nhật báo, một việc như vậy không phải
chỉ ảnh hưởng đến túi tiền của nhà văn mà thôi, nó còn ảnh hưởng đến bút pháp,
văn phong, rồi có thể dần dần đến quan niệm sáng tạo của nhà văn nữa không chừng.
Mai Thảo có lần nhận rằng: "Hiện tượng của truyện dài viết từng đoạn, đăng
từng kỳ nơi trang trong các nhật báo (...), đẩy hầu hết những cây bút sáng tác
chuyên nghiệp hiện nay tới kiếm tìm một văn thể mới, áp dụng một bút pháp mới."
Quả thật phải có văn thể bút pháp khác: truyện nhật trình không thể là thứ truyện
cô đọng, văn nhật trình không thể là thứ văn chương cầu kỳ, bí hiểm. Đã chấp nhận
viết nhật trình, chấp nhận "xuống đường", thì phải hòa mình vào quần
chúng. Mà một khi hòa mình đôi ba năm liền vào quần chúng, các vị cao sĩ kiểu
cách làm sao còn giữ nguyên được kiểu cách xưa! Cho nên xuề xòa như Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam... thì thêm một tí xuề xòa nữa sau thời kỳ trăm hoa đua nở của nhật
trình; còn các nữ sĩ thoạt tiên ngại ngùng e lệ như Thụy Vũ, Túy Hồng, Nhã Ca
v.v..., viết nhật trình riết một lúc rồi ai nấy lưu loát mạnh dạn, ai nấy ào ào
như gió táp mưa sa, nữ cũng bạo mồm bạo miệng không kém nam; đến như Mai Thảo, như Thanh Tâm Tuyền
v.v..., thuở suy tư trên Sáng Tạo và lúc dạn dày trên các trang nhật trình
phong cách thật khác xa!’
Dù TDK
có được xem là văn học hay không nhưng vào thập niên 1960, nhiều nhà văn Miền
Nam, có số lượng sách khá đồ sộ nhờ viết TDK cho các nhật báo. Bà Tùng Long cho
biết là ‘tôi đã xuất bản độ 70 bộ truyện dài và truyện vừa. Truyện đã
đăng báo nhưng chưa in thành sách vẫn còn khoảng chục bộ. Truyện nhi đồng viết
vì yêu cầu của nhà xuất bản Nhi đồng khoảng vài chục truyện. Còn truyện ngắn
cũng vài trăm cái.’
Các tờ báo nhờ TDK mà sống thì chính TDK cũng làm các tác giả trở nên nổi tiếng, gần gũi với công chúng. Ngay ở Mỹ, từng phần của truyện Love Story ban đầu được đăng trên tạp chí The Ladies' Home Journal đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm 1970 tại Mỹ và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Giống như Kim Dung với những bộ truyện võ hiệp, nếu hàng ngày không viết từng trang cho Minh Báo thì ông sẽ không thể có Trương Vô Kỵ, Vi Tiểu Bảo, Lệnh Hồ Xung. Nhà văn Sài Gòn cũng vậy. Mỗi tác giả đều có một gia tài tác phẩm đáng thèm muốn như nhà văn Võ Phiên nhận định ‘Nhận viết truyện cho báo hàng ngày tức là ép mình vào một thế kẹt: đã "dính" vào là bị lôi đi tuồn tuột, không thể dừng được. Thành thử trong thời kỳ này sức sáng tác của tiểu thuyết gia bỗng tăng vọt lên. Cùng lượt viết cho năm ba tờ báo một lúc, viết liền trong đôi ba năm, mỗi tác giả đã có vài chục tác phẩm xuất bản. ‘
Các tờ báo nhờ TDK mà sống thì chính TDK cũng làm các tác giả trở nên nổi tiếng, gần gũi với công chúng. Ngay ở Mỹ, từng phần của truyện Love Story ban đầu được đăng trên tạp chí The Ladies' Home Journal đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm 1970 tại Mỹ và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Giống như Kim Dung với những bộ truyện võ hiệp, nếu hàng ngày không viết từng trang cho Minh Báo thì ông sẽ không thể có Trương Vô Kỵ, Vi Tiểu Bảo, Lệnh Hồ Xung. Nhà văn Sài Gòn cũng vậy. Mỗi tác giả đều có một gia tài tác phẩm đáng thèm muốn như nhà văn Võ Phiên nhận định ‘Nhận viết truyện cho báo hàng ngày tức là ép mình vào một thế kẹt: đã "dính" vào là bị lôi đi tuồn tuột, không thể dừng được. Thành thử trong thời kỳ này sức sáng tác của tiểu thuyết gia bỗng tăng vọt lên. Cùng lượt viết cho năm ba tờ báo một lúc, viết liền trong đôi ba năm, mỗi tác giả đã có vài chục tác phẩm xuất bản. ‘
Công bằng
mà nói, những TDK sau nầy được in thành sách do sự hấp dẫn của nó, không phải
không có những quyển tiểu thuyết có giá trị. Đóng góp vào sự ‘giàu có’ của văn
học miền Nam (tập trung là ở Sài Gòn), bên cạnh những tác phẩm văn học in thành
sách hoặc trong các báo, tạp chí của các nhà văn nổi tiếng lúc đó như Vũ Hạnh với
‘Bút Máu’, ‘Lửa Rừng’, ‘Ngôi Trường Đi Xuống’, nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn
Trang Thế Hy, nhà văn Sơn Nam, nhà văn Lê Vĩnh Hòa (em ruột nhà văn Võ Phiến),
nhà văn Vũ Bằng, nhà văn Nguyên Hùng, nhà văn Ngọc Linh, Cô Hợp Phố … thì các
tác giả viết TDK cũng có mặt một số tác phẩm. Những tác giả, những quyển tiểu
thuyết còn ‘sống’ đến hôm nay, được độc giả và các nhà phê bình văn học nhắc đến
chứng tỏ nó đã vượt qua cái ngưỡng oan nghiệt của cụm từ ‘phơi-dơ-tông’. Ở Sài
Gòn thì không thiếu những tác giả và tác phẩm vẫn còn được nhắc và nghiên cứu đến
tận ngày nay. Thời gian và văn học sử sẽ đem lại sự công bằng cho họ, cho một
chuyên mục báo chí đã từng một thời gây mưa gió trong nền báo chí Việt Nam.
Lê
Văn Nghĩa
Tác giả
gởi cho viet-studies ngày 18-11-15
No comments:
Post a Comment