Thursday, 17 September 2015

Từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Tấn Dũng (Trọng Đạt - Đàn Chim Việt)





04:01:pm 08/09/15

Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam từ ngày đảng hình thành cho tới nay đã ảnh hưởng tới đất nước và dân tộc ta ra sao.
Trước hết nói về nhân vật

Hồ Chí Minh
Sinh ngày 19-5-1890, mất 2-9-1969, là người sáng lập đảng CS Việt Nam và đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Hà Nội. Hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, tự Tất Thành, đỗ bằng tiểu học năm 1909, năm thứ hai trung học bị đuổi, năm 1910 đến Phan Thiết dậy chữ Hán và chữ quốc ngữ, năm 1911 vào Sài Gòn học trường Bá nghệ ba tháng, trường này đào tạo nhân công hàng hải.
Ngày 5-6-1911 Thành sang Pháp, xin làm bồi trên tầu buôn Latouche-Tréville, tháng 7-1921 tới Pháp. Nguyễn Tất Thành xin học trường Thuộc địa nhưng bị từ chối. Từ năm 1912-1913, Thành sang Mỹ sau đó sang Anh làm nghề cào tuyết, phụ bếp, học tiếng Anh tại đây cho tới năm 1916, cuối năm 1917 về lại Pháp và ở đó cho tới 1923. Năm 1919 Thành gia nhập đảng Xã hội Pháp, lấy tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920 đọc luận cương của Lénine, tin tưởng chủ nghĩa Cộng Sản rồi làm báo Le Paria, Người Cùng Khổ tố cáo chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.
Năm 1922 Nguyễn Ái Quốc đến Nga tham dự Đại hội quốc tế Cộng Sản, tháng 6-1923 ông theo học CS tại Nga, năm 1924 được bầu vào Ban chấp hành đoàn quốc tế nông dân và được cử làm Ủy viên ban phương đông. Năm 1924-1927 Nguyễn Ái Quốc sang Tầu lấy tên Lý Thụy, có nhiệm vụ tuyên truyền tư tưởng cách mạng ra vùng Đông phương. Năm 1925 ông tập hợp người Việt kiều tại Trung Hoa thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Chính phủ Tưởng Giới Thạch khủng bố các đảng viên CS Tầu, VN nên Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Hương Cảng rồi thoát sang Nga, tháng 11-1927 được cử đi Pháp.
Năm 1928-1929 Nguyễn Ái Quốc ở Thái Lan, năm 1928 ông cải trang thành nhà sư để tuyên truyền cho các Việt kiều tại đây, cuối năm 1929 ông lại sang Tầu. Ngày 3-2-1930 tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, theo chỉ thị của Quốc tế CS, ông thống nhất ba tổ chức CS thành đảng CS Việt Nam, sau đổi thành Đảng CS Đông Dương rồi đổi thành Đảng Lao Động VN. Tháng 3-1930 ông sang Thái rồi lại sang Tầu. Năm 1931 lấy tên Tầu Tống Sơ Văn (Sung Man Cho), bị chính quyền Hương Cảng bắt giam, họ tính giao lại cho Pháp nhưng nhờ luật sư Frank Loseby bào chữa được thả ra ngày 28-12-1932, ông đi Thượng Hải rồi trở lại Nga.
Nguyễn Ái Quốc đến Nga lần thứ hai mùa xuân năm 1934 với bí danh Lin, theo học trường Quốc tế Lénine (1934-1935), tham dự Đại hội VII Đệ tam quốc tế với vai trò quan sát viên. Năm 1938 ông bị Nga giam lỏng, bị nghi ngờ vì được Hương Cảng trả tự do nhưng không có bằng cứ nên lại được thả ra. Trong giai đoạn này Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt làm Tổng bí thư Đảng CS Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc giữ nhiệm vụ liên lạc viên giữa Quốc tế CS và đảng CS Đông Nam Á.
Năm 1938, ông trở lại Tầu vai Thiếu tá Hồ Quang thuộc Bát Lộ Quân (Lộ quân thứ 8) cho tới năm1939. Đầu tháng 1-1941 Ủy viên Trung ương đảng sang Tầu mời ông về nước lãnh đạo cách mạng, về VN ngày 28-1-1941 qua lối Cao Bằng, lấy bí danh Già Thu tới ở hang Bắc Bó Cao Bằng. Ngày 13-8-1942 ông lấy tên Hồ Chí Minh sang Tầu vận động Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, lần đầu tiên xử dụng tên HCM trong giấy tùy thân. Hai tuần sau bị chính quyền địa phương bắt giam một năm, ông viết Nhật ký trong tù, ngày 10-9-1943 HCM được thả nhờ người Mỹ vận động với Quốc dân đảng Trung Hoa, HCM tham gia Ban chấp hành trung ương VN cách mệnh đồng minh hội.
Cuối tháng 9-1944 Hồ Chí Minh về nước thành lập đội vũ trang tuyên truyền giải phóng quân 34 người. Cuối 1944 ông trở lại Côn Minh cho tới đầu 1945 và gặp Tướng Mỹ Chennault tại đây, ông này sẵn sàng giúp Việt Minh. Họ muốn dùng VM chống Nhật giải cứu cho các phi công Mỹ, cung cấp tin tức tình báo, đổi lại Mỹ giúp họ vũ khí, thuốc men, huấn luyện…
Tháng 7-1945 Hồ Chí Minh bị sốt rét rất nặng tưởng chết, toán OSS (US Office of Strategic Servieces) đã giúp chữa bệnh cho ông, bác sĩ quân y tên Paul Hogland đã ở đó 2 tháng và cứu sống họ Hồ.
Ngày 16-8-1945 Tổng bộ VM họp tại Tân Trào cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy tình hình trong nước rất lộn xộn. Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã cướp được chính quyền. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu.
Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Họ Hồ có cho viên chỉ huy OSS biết là ông theo chủ nghĩa Lénine, tham gia đảng CS Pháp, gia nhập Đệ tam Quốc tế vì họ có quan tâm vấn đề thuộc địa. Người Mỹ cho rằng HCM là CS bù nhìn của Moscow, tới cuối tháng 9-1946 họ rút hết cố vấn Mỹ về nước chấm dứt mọi liên lạc với Việt Minh.
Võ Nguyên Giáp thay mặt HCM giải tán các đảng phái rồi tàn sát họ đẫm máu, ngày 23-9-1945 Pháp tấn công Sài Gòn, ngày 6-1-1946 tổng tuyển cử bầu Quốc hội. QH khóa I cử ra chính phủ kháng chiến do HCM làm chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng hòa vừa là Thủ tướng, về đối ngoại không được quốc gia nào công nhận. Vì bị các đảng phái tố cáo HCM, Việt Minh là CS nên tháng 11-1945 ông cho giải tán Đảng CS Đông Dương (giả vờ) và nhượng bộ đối lập Việt Cách, Việt Quốc 70 ghế tại Quốc hội mà không qua bầu cử.
Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật tại miền Bắc, sau đó thương thuyết với Việt Minh. Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc cho đổ bộ lên Hải Phòng, VM ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (1) và củng cố nội bộ, tiêu diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người (2). Đảng CS đã bắt đầu nhúng tay vào máu của dân tộc VN, Giáp được Pháp giúp đỡ cho tấn công các đảng phái QG, phái Troskist, Công giáo…
Cuối tháng 5-1946, HCM và Phạm Văn Đồng sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, Hội nghị thất bại, HCM ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng thuộc địa Pháp Moutet. Tại Hà Nội hai bên ngày càng căng thẳng, tối 19-12-1946 Việt Minh tấn công quân Pháp mở đầu cho cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ. Tháng 2-1947 VM rút lên Việt Bắc, sang năm 1948, Pháp mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, Sơn Tây và Việt Trì. VM chỉ hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công voa.
Sang năm 1949, tháng 7 tới tháng 9 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phát Diệm và Bùi Chu. Từ giữa và cuối 1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển. Bernard Fall nói khi Trung Cộng tiến sát biên giới Việt Hoa tháng 11-1949 thì chương I của chiến tranh Đông Dương đã được đóng lại, người Pháp không còn cơ hội chiến thắng (3). Năm 1950 gió đã đổi chiều khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên 304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự.
Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh tan nát, thiệt hại khoảng 7,000 người và nhiều kho vũ khí, trận đánh rung động cả nước Pháp, không ngờ VM có thể mạnh đến thế. Sự hình thành, bành trướng lớn mạnh cũng như sống còn của VM không phải vì họ cướp được chính quyền tháng 8-1945, không phải nhờ tài lãnh đạo siêu việt của họ Hồ… mà nhờ Mao đã chiếm được toàn cõi Hoa Lục. Sự kiện CS Tầu thắng thế họ Tưởng đã thay đổi khúc quành lịch sử tại Đông Dương, hơn thế nữa nó còn ảnh hưởng tới cả thế giới từ đó cho tới tận ngày hôm nay. Tháng 1-1951 Trung Cộng giúp VM thành lập được 5 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn pháo binh.
Thời cơ đã tới cho họ Hồ, nếu Mao bị Tưởng đánh bại những năm 1946, 47…thì số phận của VM cũng sẽ tàn lụi theo vì không có sự giúp đỡ của CS Tầu
Tết Canh Dần 1950 HCM sang Tầu, sang Nga, tại Đại hội đảng II giữa tháng 2-1951, đổi tên đảng CS Đông Dương thành đảng Lao động VN, tại Đại hội này, đảng Lao Động khởi xướng cải cách ruộng đất, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt bọn bóc lột, phản quốc, phản động, địa chủ, Việt gian, cường hào, đối lập…để nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ tháng 1-1952 họ Hồ gửi bản chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động VN cho Staline để “Đề nghị duyệt xét và chỉ dẫn”, HCM cho biết chương trình hành động do chính ông và được Lưu Thiếu Kỳ giúp đỡ. Cải cách ruộng đất được phát động cuối năm 1953 (tại hậu phương do VM kiểm soát) sau 1954 được tiếp tục lại năm 1956, 1957 tại miền Bắc giết hại trên một trăm nghìn người, đầu năm 1956 khởi sự sửa sai, HCM khóc lóc nhận sai lầm.
Tình hình quân sự do HCM lãnh đạo, Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã đạt nhiều thắng lợi nhờ viện trợ và huấn luyện của Trung Cộng. Sau trận Cao Bắc Lạng tháng 10-1950, mấy tháng sau Tướng De Lattre được Pháp cử sang làm Tư lệnh Đông Dương. Ông đã đánh thắng Võ Nguyên Giáp nhiều trận lớn, chuyển bại thành thắng, nhưng De Lattre chỉ chiến đấu được gần một năm thì bị bệnh nặng phải về Pháp. Từ đầu 1952, Tướng Salan lên thay khi VM ngày càng mạnh, nhờ viện trợ Trung Cộng. Giữa năm 1953 Tướng Navarre, Tư lệnh mới cho biết những năm 1953, 1954 quân lưu động VM rất mạnh khoảng 9 sư đoàn, gấp ba quân lưu động Pháp (4). Trận Điện Biên Phủ kéo dài từ ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì thất thủ, 11 ngàn quân Liên Hiệp Pháp bị bắt làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt hại khoảng 10,000 người. Họ thắng trận nhờ viện trợ tiếp liệu ồ ạt từ Hoa Lục sang.
Cuộc chiến tám năm khói lửa (1946-1954) giành độc lập của họ Hồ đã gây lên cảnh núi xương sông máu: khoảng 300,000 thanh niên tử trận, 500,000 bị thương, 150,000 người thường dân thiệt mạng. Quân đội Liên hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả chết, bị thương và bị bắt (5). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường, nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng hoang tàn vì bom đạn.
Hai bên đều mệt mỏi, ngày 20-7-1954 Pháp và Việt Minh ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, quân Pháp và chính phủ Quốc gia Việt Nam rút về miền nam dưới vĩ tuyến 17, thời hạn vào nam ra Bắc được ấn định 300 ngày. Tại các thành phố lớn Hà Đông, Hà Nội, Hải Dương…nhiều nhà đã lên đường vào nam.
Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội, tại các đình làng người ta tổ chức hội hè, ảnh Hồ chủ tịch treo ở giữa, hình Mao chủ tịch và đồng chí Ma Lăng Cốp treo ở hai bên, thanh niên, thiếu nữ nhảy múa hát sol đố mì….Khi cuộc di cư bắt đầu, tại các làng mạc người dân thường chọn ở lại trong khi dân tỉnh lên máy bay tại Hà Nội hoặc xuống Hải Phòng lên tầu vào nam. Mấy tháng sau khi Việt Minh về tiếp thu, Hà Đông Hà Nội đã y như thành phố chết, vắng tanh vắng ngắt. Tại miền quê chính sách thuế nông của VM đã làm người dân tuyệt vọng, thật là khủng khiếp, chính phủ đánh thuế cao gấp mười lần thời Quốc gia nên nhiều gia đình trung lưu không còn đường nào khác là ra đi. Rất nhiều người sống ở hậu phương muốn vào nam nhưng điều kiện khó khăn đã khiến họ phải ở lại. Muốn đi nam phải xuống Hải Phòng, muốn đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng phải có giấy thông hành, chỉ có một số ít người xin được giấy của bà con ở Hà Nội về cạo sửa làm giấy giả để lên tầu hỏa xuống Hải Phòng rồi vào Nam. Tổng cộng có khoảng gần một triệu người di cư vào nam, nếu thời hạn di cư kéo dài thêm thì số người ra đi còn tăng hơn nhiều.
Khoảng giữa năm 1955, khi cuộc di cư kết thúc, bác Hồ xuống Hải phòng khóc than đồng bào đã hiểu lầm và bỏ xứ ra đi. Thập niên 60, HCM giảm dần các hoạt động chính trị, ông hay sang Tầu tham quan, chữa bệnh nhất là những năm 1967, 1968, 1969 ông đau nặng sang Tầu nhiều lần. Từ năm 1963 HCM tuyên bố sẽ bàn giao cho Lê Duẫn chỉ còn giữ vai trò tượng trưng, quyền lực dần dần vào tay Duẫn. Nhờ người phụ tá đắc lực Lê Đức Thọ mà Duẫn tạo dựng uy quyền tối thượng tại BV.
Một số người Tây phương (Pierre Asselin) cũng như Nguyễn thị Liên Hằng (tác giả Hanoi’War) có nhận định cho rằng Duẫn đã cô lập Hồ, Giáp và các đồng minh của họ để chiếm quyền lực tuyệt đối. Tôi nghĩ chuyện này khó tin vì mọi người đều rõ Hồ chí Minh là tay lưu manh chúa cả thế giới đều biết, chẳng lẽ lại chịu để bọn em út Duẫn, Thọ soán ngôi dễ dàng như vậy. Nếu nói là HCM thiếu sức khỏe nhường địa vị cho Duẫn, Thọ như dư luận phía CS cho biết thì còn tin được.
Trên thực tế các quyết định, kế hoạch lớn vẫn cần HCM chỉ đạo, phê duyệt (thí dụ hòa đàm Paris) vì ông vẫn là Chủ tịch đảng (1951-1969), sau khi HCM chết, không ai được cử thay thế chức vụ này. Nhiều người Mỹ hiểu sai về tình hình chính trị đảng CSVN, cựu Tổng thống Nixon năm 1985 nói về sự sai lầm của TT Johnson những năm 1965, 1966,1967 :
“Chúng ta cần biết là không bao giờ dụ dỗ, mơn trớn Hồ Chí Minh từ bỏ cuộc chiến mà phải bắt buộc ông ta từ bỏ nó” (No More Vietnams trang 82).
Sự thực trong những năm này HCM đã giao quyền cho Lê Duẫn. HCM mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. CSVN tạo nhiều huyền thoại ca tụng HCM, ông là nhà văn, nhà thơ, nhà cách mạng, biết nhiều thứ tiếng…Thời kỳ kháng chiến, Việt Minh lưu truyền một bài thơ Hán văn dưới đây mà họ nói là của bác (báo Sài Gòn thập niên 60 có cho đăng lại).
Thu dạ
Dạ bán canh thâm tiệm đắc nhàn
Thu phong thu vũ báo thu hàn
Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng
Du kích qui lai tửu vị tàn.
(tôi xin dịch xuôi: 
Đêm Thu
Nửa đem canh khuya ta tạm được chút nhàn 
Gió thu, mưa thu báo cái lạnh của mùa thu tới
Bỗng nghe tiếng sáo thu từ sườn núi bên kia vọng lại
Quân du kích trở về khi chén rượu (tiễn) chưa tàn)
Chẳng biết bài thơ có phải do bác làm hay không nhưng nội dung thật là giả tạo, trận chiến tàn khốc máu chẩy thịt rơi được diễn tả thật thi vị y như cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đời nhà Đường.
Có dư luận nói CSVN bắt chước như khỉ, thấy ngưới ta lấy tên lãnh tụ Lénine đặt tên thành phố Saint Petersburg là Leninegrad cũng đặt tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Thấy người ta ướp xác Lénine tại quảng trường đỏ cũng ướp xác họ Hồ tại quảng trường Ba Đình, thật là gớm ghiếc. Nay bên Nga họ đang nghiên cứu đưa xác Lénine đem chôn vì việc bảo quản tốn kém và dơ bẩn. Cái xác chết đúng lý phải đem chôn lại trưng bầy cho thiên hạ tới ngắm, rất phản văn minh phản tiến bộ. Thấy người ta dựng tượng cũng bắt chước dựng tượng khắp nơi, nay toàn quốc đang lên cơn sốt tượng đài. Dân còn nghèo, lợi tức đầu người đứng thứ 138 trên thế giới mà đã xây khoảng 140 tượng HCM, CSVN dự trù trong năm nay sẽ cho xây thêm nhiều tượng cho đủ con số 200. Sơn La đang lên kế hoạch xây tượng HCM với chi phí 65 triệu đô la, xây tượng, xây cầu.. chẳng qua chỉ là để kiếm chác đục khoét công quĩ nhà nước.
Ngày nay tại VN nhiều chùa quốc doanh thờ tượng Hồ Chí Minh bên tượng Phật, cái trò khỉ này bị coi là xúc phạm, Đức Phật là đấng từ bi không giết đến một con giun, con kiến phải ngồi chung với kẻ sát nhân. Nhiều người miền Bắc cho tới nay vẫn còn bị ảnh hưởng tuyên truyền nhồi sọ về HCM, ngay cả đảng viên phản tỉnh trốn ra nước ngoài vẫn còn khen ngợi, ca tụng HCM, thậm chí họ còn nói CSVN nay đi sai đường của bác.
Tư tưởng HCM thực ra chỉ là sự cóp nhặt tư tưởng Mác Lê, bác trình độ tiểu học lấy đâu ra tư tưởng. Nhiều nhà sử gia Mỹ khen ông HCM là nhà ái quốc, họ khen cho vui thôi thực ra họ thừa biết ông ta là tay sai Đệ Tam Quốc tế, vả lại lời nói chẳng mất tiền mua, họ có mất vốn mất lãi gì đâu?
Hồ Chí Minh là Chủ tịch đảng kiêm Chủ tịch nhà nước như Lénine của Sô Viết, ông ta là Chủ tịch đảng duy nhất của CSVN (18 năm 195 ngày), sau khi HCM chết, người đứng đầu đảng được mệnh danh là Tổng bí thư hay Bí thư thứ nhất, Chủ tịch đảng chỉ dành riêng cho HCM, một chức vị danh dự.

Lê Duẩn
Giữ chức vụ Bí thư thứ nhất đảng Lao động VN từ 1960-1976, Tổng bí thư đảng CSVN từ 1976-1986. Duẩn là người giữ chức Tổng bí thư lâu nhất 25 năm, người có uy quyền cao nhất của CSVN như Tập Cận Bình, Đặng Tiểu Bình bên Tầu. Năm 1954, khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội người ta chỉ nghe nói tới bốn nhân vật chủ chốt Hồ, Giáp, Chinh, Đồng và một số sĩ quan cao cấp Thiếu tướng văn tiến Dũng, Đại tá Vương Thừa Vũ… khi ấy Lê Duẫn, Lê Đức Thọ hoàn toàn vô danh, không ai biết tới
Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại Quảng Trị trong một gia đình nông dân, mất ngày 10-7-1986. Năm 1920 học hết tiểu học, Duẫn học hết năm thứ nhất trung học (đệ thất) rồi nghỉ. Năm 1926 làm nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi đường rầy xe lửa Đà nẵng. Năm 1930 Duẫn gia nhập đảng CS Đông Dương, năm 1931 là ủy viên tuyên huấn Bắc kỳ, tháng 4-1931 bị Pháp bắt ở Hải Phòng kết án 20 năm tù.
Năm 1939 Lê Duẩn được bầu vào Ban thường vụ trung ương đảng, năm 1940 bị Pháp bắt đầy ra Côn đảo án tù 10 năm, đến 1945 được đón về, năm 1946 làm việc bên Hồ Chí Minh. Từ 1946-1954 ông được cử làm Bí thư xứ ủy Nam bộ, sau này là Trung ương cục miền nam, Chính ủy bộ tư lệnh nam bộ. Năm 1951 Lê Duẫn được vào Ban chấp hành trung ương (BCHTƯ) và Bộ chính trị trong kỳ Đại hội đảng lần 2. Năm 1952 ra Việt Bắc họp Trung ương đảng được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá tới đầu năm 1954, được cử làm quyền bí thư Trung ương cục miền nam.
Năm 1954-1957 ông được phân công ở lại miền nam lãnh đạo, HCM chọn Duẫn vì ông ta nắm vững đường lối trung ương am hiểu địa thế. Tới 1957 HCM gọi Lê Duẫn ra Hà Nội gấp để có thể điều hành công việc chung của đảng. Tháng 9-1960 tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, Duẫn được bầu vào BCHTƯ và Bộ chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất BCHTƯ đảng. Từ 1960 theo một số nhận định HCM sức khỏe yếu, Lê Duẫn trở thành người có quyền hành cao nhất.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV tháng 12-1976 và lần thứ V tháng 3-1982, Duẩn tiếp tục được bầu giữ chức Tổng bí thư cho tới chết, tại Đại hội V, Lê Duẩn sức khỏe yếu, Ban chấp hành giao một số việc cho Trường Chinh. Lê Duẫn lên nắm quyền và tiếp tục theo đuổi cuộc chiến mà HCM giao lại qui mô hơn, đẫm máu hơn. Tác giả Nguyễn thị Liên Hằng cách đây mấy năm xuất bản cuốn Hanoi’s war, ý nói cuộc chiến này do Hà Nội phát động. Tôi nghĩ nó không hoàn toàn đúng, nếu nói cuộc Thế chiến thứ II tại Châu Âu do Bá Linh phát động hay cuộc Thế chiến tại Á châu do Đông Kinh chủ trương thì hoàn toàn đúng vì họ tự làm được vũ khí, tự quyết định được. Hà Nội không tự làm được vũ khí, họ phải xin viện trợ quân sự của Nga, Trung Cộng, phải được CS quốc tế chấp thuận nên họ không tự ý phát động cuộc chiến được.
Sở dĩ CS quốc tế chấp thuận viện trợ cho BV một số hàng khổng lồ tổng cộng 2 triệu 362 ngàn tấn hàng hậu cần và vũ khí (6) vì BV là một quân tốt quá lợi hại, là mũi nhọn xung kích của CS quốc tế để làm suy yếu đế quốc. BV có lẽ là quân tốt của CS quốc tế hơn là một cường quốc quân sự.
Những năm cuối thập niên 50 VC bắt đầu đánh du kích và ám sát trưởng ấp, xã trưởng, thập niên 60 họ cho xâm nhập các cán bộ tập kết, năm 1961 Việt Cộng gia tăng lực lượng tới 25,000 cuối năm 1961. TT Kennedy cho tăng quân số VNCH lên 200,000 người, năm 1962 viện trợ cho VNCH ba đại đội trực thăng H-21, 16 phi cơ vận tải C-123, hai chi đoàn thiết giáp M-113 (7) …
Việt Cộng bị bao vây tiêu diệt dần dần, quân đội VNCH nhờ chiến thuật, vũ khí mới đã đạt thắng lợi năm 1962. Năm 1964, lợi dụng tình hình chính trị miền Nam xáo trộn, Lê Duẫn cho gia tăng xâm nhập cán binh, tiếp liệu. Giữa năm 1965 trung bình một tuần VNCH mất một quận và một tiểu đoàn, TT Johnson vội đưa quân sang ngăn chận CS, cho tới 1968 đã có tới nửa triệu quân Mỹ tại miền nam. BV gia tăng xâm nhập, cuộc chiến mở rộng. Vì sự sai lầm của Johnson đem áp dụng chiến tranh giới hạn (limited war) vào VN kéo dài cuộc chiến khiến phong trào chống đối ngày càng lên cao. Trận Mậu thân 1968 là thảm bại quân sự của BV nhưng lại là thảm bại chính trị cho Johnson. Người Mỹ thua tại mặt trận đất nhà mặc dù trong những năm 1965, 1966, 1967.. đã tiêu diệt được hàng mấy trăm ngàn tên địch.
Lê Duẩn áp dụng triệt để chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến người dân và Quốc hội Mỹ quá chán chiến tranh Đông Dương. Họ đã áp lực tân Tổng thống Nixon rút quân ký Hiệp định Paris tháng 1-1973, để rồi Quốc hội Dân chủ cắt giảm dần viện trợ quân sự cho VNCH, tới tháng 2-1975 quân đội miền nam chỉ còn đủ đạn chiến đấu trong vòng một tháng (8). Sài Gòn thất thủ ngày 30-4-1975, cuộc chiến giải phóng miền nam của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thực ra chỉ là một cuộc ăn cướp vĩ đại như nhận xét của ông Bùi Tín.
Tiếp tục sự nghiệp binh đao máu lửa của sư phụ, Lê Duẩn lãnh đạo một cuộc chiến dài đằng đẵng bắt đầu từ cuối thập niên 50 cho tới cuối thập niên 80. Mấy năm sau cuộc chiến cốt nhục tương tàn 1975, cuối thập niên 70 khởi đầu cuộc chiến giữa các chế độc Cộng Sản. Dưới thời Lê Duẫn, chiến tranh loạn lạc liên tu bất tận khiến nhân dân khốn khổ trăm bề.
Rạn nứt giữa Bắc Kinh và Hà Nội khởi đầu từ 1968, Lê Duẩn có khuynh hướng thân Nga và đụng chạm với Trung Cộng. Hai bên bất đồng quan điểm, Bắc Kinh muốn CSVN dùng chiến tranh du kích có giới hạn nhưng Duẫn và tập đoàn của ông muốn đánh qui ước để sớm chiếm được vựa lúa miền nam. Hà Nội muốn nói chuyện trực tiếp với Mỹ tại Paris bắt đầu tháng 5-1968 mà Trung Cộng phản đối cuộc hòa đàm này. Tới năm 1972 khi Nixon sang Tầu bắt tay Mao Trạch Đông thì bị BV cho là phản bội cách mạng, từ năm 1973, giới lãnh đạo Bác Kinh cho biết CSVN là kẻ thù. Năm 1975 Lê Duẫn sang Tầu từ chối liên minh với Bắc Kinh chống lại Liên Xô. Hà Nội càng thân Nga, Tầu đỏ càng sợ bị cô lập, tháng 7-1978, Trung Cộng cắt hết viện trợ, rút cố vấn về nước.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký Hiệp ước hữu nghị với Nga về thương mại văn hóa và cả quốc phòng, an ninh hai nước để phòng thủ chung khiến Bắc Kinh lo ngại thế gọng kìm Nga phương Bắc và CSVN phương nam. Tháng 4 và tháng 9- 1977 Khmer đỏ được Bắc Kinh giúp đỡ khuyến khích đã tấn công vào lãnh thổ VN bằng các sư đoàn chính qui, đốt phá làng mạc, giết hại dân lành. CSVN cũng cho quân đánh sâu vào đất Miên rồi rút lui, cuối 1978 Pol Pốt huy động hàng trăm ngàn ngưới tấn công toàn biên giới, CSVN sau cùng huy động 6 quân đoàn (khoảng 15 sư đoàn,180,000 quân) gồm cả pháo, xe tăng, máy bay… Từ đầu tháng 12-1978 cho tới cuối tháng 3-1979 CSVN đã chiếm đươc gần hết lãnh thổ Miên và thành lập chính quyền mới, cho tới tháng 12-1989 thì rút khỏi Khmer theo điều kiện của Mỹ để được bãi bỏ cấm vận và bang giao. Theo dữ kiện phía CS cho biết có khoảng 15,000 quân CSVN bị giết, 30,000 người bị thương phía Khmer đỏ có hàng trăm nghìn bị tử thương chưa kể thường dân.
Trung Cộng đã khiêu khích biên giới từ lâu nay yêu cầu Hà Nội phải rút khỏi Miên nếu không sẽ đánh thẳng vào VN. Ngày 17-2-1979 họ đưa khoảng từ 300 ngàn tới 500 ngàn quân tấn công trên toàn biên giới, chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng và một số thị trấn khác rồi rút quân một tháng sau vào ngày 16-3. Tổn thất nhân mạng mỗi bên khoảng 20,000 người. Cuộc chiến đã để lại nhiều ảnh hưởng lâu dài với kinh tế VN, cuộc xung đột còn kéo dài hơn 10 năm nữa.
Lê Duẩn người nắm quyền tuyệt đối của Hà Nội đã gây nên nhiều cuộc chiến trong mấy chục năm sau Hiệp định Genève, đồng thời tập đoàn của ông ta đưa ra đường lối sai lầm về kinh tế. Hậu quả của các cuộc chiến tranh liên miên đưa tới khủng hoảng về kinh tế, đời sống. Từ 1976 tới 1986 CSVN bị cô lập, ông Trần Văn Thọ (Giáo sư Đại học Waseda, Đông Kinh) nói về kinh tế thời Lê Duẩn: mười năm sau năm 1975 là một giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử VN. Là một nước nông vi bản, 80% là dân quê, thiếu ăn phải ăn độn bo bo, khoai sắn từ 1976 tới 1979. Lương thực theo đầu người giảm  liên tục từ 1976 tới 1979, sau đó có tăng trở lại nhưng cũng không bằng 1976. Sản xuất công nghiệp đình trệ, vật dụng thiếu, nhân dân vô cùng khốn khổ. Nguyên nhân chính do sai lầm trong chính sách phát triển nhất là vội vã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa vào kinh tế miền nam. Nguy cơ thiếu ăn kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới cuối năm 1986 mới biến chuyển. Tổng sản lượng trong 10 năm trước ngày đổi mới (1976-1986) chỉ thăng 35% (trung bình một năm 3,5%) trong khi dân số tăng 22%, lợi tức đầu người chỉ tăng khoảng 1%. Việt Nam trong khoảng thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói nhât thế giới.
Áp dụng mô hình Xã hội chủ nghĩa, một lý thuyết kinh tế mọi rợ từ một xã hội bán khai vào một đất nước tân tiến như miền nam VN thất bại không có gì khó hiểu. Nó cho thấy Lê Duẫn và tập đoàn ấu trĩ lạc hậu là nhường nào, Lê Duẩn một con người thất học và độc đoán, nắm mọi quyền lực trong tay đã tàn phá đất nước và đầy đọa dân tộc ta như thế nào.
Lê Duẫn nói
“Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”
Xin hãy nghe nhà lãnh đạo học lực tiểu học phát biếu vào dịp Tết 1976 như sau:
“Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”
Câu nói này của Duẫn chỉ khiến cho dân Sài Gòn cười bể bụng, những cái mà ông ta hứa hẹn họ đã có từ trên mười năm trước
Mồng một Tết 1976, Duẫn về thăm quê tại làng Hậu Kiên, Quảng Trị nói:
“Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó.”
Thật là ghê tởm cho cái phản văn minh, phản tiến bộ mà Duẩn đem lại cho đất nước.
Được Hồ Chí Minh gọi về Bắc và giúp cho lên giữ chức Bí thư thứ nhất thay thế Trường Chinh năm 1957, Lê Duẫn dần dần trở thành nhân vật số một của chế độ. Duẫn phạm nhiều tội ác với dân tộc VN gấp bội lần HCM, cuộc chiến mà ông ta ngoan cố tiến hành vĩ đại hơn và tàn phá đất nước gấp mười lần cuộc chiến tám năm khói lửa của họ Hồ. Duẫn đã biến VN trở thành quân tốt quá lợi hại của CS quốc tế, đã làm đổ quá nhiều xương máu của nhân dân ta qua ba cuộc chiến liên tục từ 1958 cho tới cuối 1989.
Theo tiết lộ mấy năm gần đây của ông Bùi Tín và một số cựu đảng viên, Lê Duẫn và đồng bọn đã chia chác nhau 18 tấn vàng lấy được từ Ngân hàng quốc gia VNCH năm 1975. Người ta cho biết nay không còn dấu tích gì của số vàng khổng lồ này.
May mà Duẫn chết bệnh để rồi chính sách đổi mới thay thế con đường mọi rợ độc đoán của một nhà lãnh đạo vô học như ông ta đã kéo dài mấy chục năm đằng đẵng.

Trường Chinh
Tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện, Nam Định, mất ngày 30-9-1988 tại Hà Nội. Trường Chinh đã hai lần giữ chức Tổng bí thư, ngoài ra ông giữ chức Chủ tịch nhà nước 1981-1987, Chủ tịch Quốc hội 1960-1981.
Năm 1954, khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội, bốn nhân vật chính của đảng là Hồ Chí Minh Chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nhà nước, Võ Nguyên Giáp Tổng tư lệnh quân đội nhân dân, Trường Chinh Tổng Bí Thư đảng, Phạm Văn Đồng Phó thủ tướng, trong đó Trường Chinh được coi là nhân vật số hai của chế độ. Trường Chinh viết sách báo tuyên truyền cho Việt Minh như một lý thuyết gia của chế độ nhưng thực ra tư tưởng của ông cũng không có gì mới lạ. Ông ta nổi tiếng ở chiến lược trường kỳ kháng chiến nhất định thành công.
Đặng Xuân Khu thuộc gia đình nho giáo, từ nhỏ đã học Tứ Thư, Ngũ Kinh, thơ Đường, lớn lên theo Tây học bậc thành chung (đệ nhất cấp sau này), vì tham gia chính trị nên bị đuổi học năm 1926. Năm 1927 Xuân Khu lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng thương mại, năm 1929 Khu vận động thành lập Đông Dương CS đảng và là một trong những đảng viên đầu tiên. Cuối năm 1930 bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù, năm 1936 được trả tự do. Tại hội nghị Trung ương khóa 7 họp tại Bắc Ninh tháng 11-1940, Trường Chinh được bầu vào Ban CHTƯ cùng được cử làm quyền Tổng bí thư thay thế Nguyễn văn Cừ. Tháng 5-1941 tại Hội nghị trung ương lần thứ 8 họp tại Cao Bằng, Trường chinh được bầu Tổng bí thư kiêm trưởng ban tuyên huấn Trung ương, năm 1943 bị Pháp xử tử hình khiếm diện.
Tháng 3-1945, ông triệu tập Hội nghị thường vụ trung ương xác định thời cơ tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của đảng do Trường Chinh trụ trì, ông được giao phụ trách ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Cuối năm 1945, đảng CS Đông dương tự tuyên bố giải tán (giả vờ) và chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do Trường Chinh làm hội trưởng.
Kháng chiến bùng nổ cuối năm 1946, ông viết một loạt bài nổi tiếng rất dài với tựa đề “Kháng chiến nhất định thắng lợi” trên báo Sự thật năm 1947. Võ Nguyên Giáp nhận định bác Hồ là linh hồn của kháng chiến, Trường Chinh là người đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận. Năm 1951 tại Đại hội đảng lần thứ 2, đổi tên đảng là Đảng Lao động VN, ông lại được bầu vào Ban CHTƯ và giữa chức Tổng bí thư cho tới tháng 10-1956. Báo Cứu quốc đăng bài giới thiệu đánh giá: Hồ chủ tịch là linh hồn của cách mạng thì ông Trường Chinh là bàn tay điều khiển chỉ huy.
Năm 1951 đường lối cải cách ruộng đất được đưa ra trong báo cáo chính trị của Trường Chinh tại Đại hội lần thứ 2, thừa nhận những địa chủ không phản quốc có quyền công dân, quyền tài sản. Năm 1953Việt Minh chiếm ưu thế chiến trường, Trường Chinh được cử làm trưởng ban cải cách ruộng đất Trung ương. Cuộc cải cách ban đầu có kết quả, tịch thu tài sản của bọn phản quốc chia cho bần cố nông.
Sau khi kiểm soát được miền bắc, cuối năm 1954 do áp lực của các cố vấn Tầu, chiến dịch Cải cách ruộng đất được đẩy mạnh tới chỗ tàn bạo, đổ máu, bắn giết..khiến hơn một trăm ngàn người bị thiệt mạng. Trường Chinh phải chịu trách nhiệm và từ chức Tổng bí thư, sau đó ông đứng đầu công tác sửa sai. Năm 1958 Trường Chinh được bổ nhiệm Phó thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước. Năm 1960 được bầu vào Ban CHTƯ, Ủy viên Bộ chinh trị, Chủ tịch quốc hội cho tới năm 1976. Sau khi chiếm được miền nam ngày 30-4-1975, Trường Chinh tuyên bố trên đài phát thanh:
“Nay nhà nhà ai nấy đều đã có cơm ăn áo mặc, trẻ em đều được cắp sách đến trường, đó là những thành quả của đảng ta mà qua lịch sử VN từ xưa tới nay chưa ai thực hiện được”
Không hiểu người miền Bắc nghĩ sao về lời nói của ông Chủ tịch quốc hội, người miền nam, dân Sà goòng nghe xong thì họ cười bể bụng!
Năm 1981 ông được bầu vào chức Chủ tịch hội đồng nhà nước, Chủ tịch hội đồng quốc phòng, ngày 14-7-1986 Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư thay thế Lê Duẫn chết bệnh.
Tháng 12-1986 tại Đại hội đảng lần thứ 6 ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của đảng và nhà nước, làm cố vấn cho BCHTƯ đảng. Trường Chinh mất ngày 30-9-1988 thọ 81 tuổi. Người ta cho rằng Trường Chinh là người bảo thủ, phụ trách tuyên truyền nhưng chính ông là người phát động đổi mới nhường chỗ cho Nguyễn Văn Linh tại Đại hội 6. Ông ta nói trên truyền hình tôi và đồng chí Lê Đức Thọ xin không ghi danh ứng cử…
Trường Chinh là người tán thành đổi mới nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng 10 năm sau ngày chiếm được miền nam, Võ Văn Kiệt nói Trường Chinh là Tổng bí thư đổi mới. Các cán bộ cao cấp đánh giá Trường Chinh là người đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng, tạp chí Cộng sản nói Trường Chinh là Tổng bí thư đặt nền móng cho công cuộc đổi mới, ông được coi là người bảo thủ nhưng cuối đời quan điểm của ông thay đổi thành cấp tiến.
Thực ra theo lời một cán bộ trung cấp, giám đốc hồi hưu (tôi được tiếp xúc năm 1989) cho biết Gorbachov, Tổng bí thư CS Liên xô đã cử người sang làm đảo chính không cho đổ máu. Tôi nghĩ nếu không có sự ép buộc của Liên Xô lớp người bảo thủ như Trường Chinh, Lê Đức Thọ sẽ còn nắm quyền dài dài, đến Tết họ mới chịu thoái vị. Một cố vấn của Trường Chinh phát biểu: Giữa năm 1986 đói khổ, các dự án lớn thất bại, nguyên liệu khan hiếm, lạm phát 300, 400, 500, 700%… Lòng dân hoang mang, trong khi khủng hoảng Trường Chinh quyết định táo bạo đưa đất nước phát triển theo đường lối mới sau khi đã trải qua những sai lầm.
Sự thực ngoài đổi mới ra họ không còn đường nào khác khi Nga bắt đầu từ bỏ CS, từ bỏ kinh tế chỉ huy sang kinh tế tự do. Trong bài “VN từ 1990”, William S. Turley nói về đổi mới của CSVN như sau: sự sụp đổ của Đông Âu khiến CSVN bị cô lập, từ 1985 bắt dầu rút khỏi Căm Phu Chia, tháng 9-1989 rút hết. VN cải thiện quan hệ các nước láng giềng, bang giao với Mỹ từ 1995, cùng năm được gia nhập khối ASEAN cho thấy VN được hội nhập với các nước khác, tái lập hòa bình. Họ tập trung cải cách kinh tế cuối thập niên 80, chính phủ tiến hành những bước thực tiễn, đáp ứng thực trạng trong nước. CSVN đổi mới vì họ không còn con đường nào khác. Những điểm chính đổi mới gồm: luật đầu tư có chút cấp tiến, bãi bỏ hợp tác xã nông nghiệp, chấm dứt bao cấp, giảm bỏ các công ty quốc doanh. Việc làm ở lãnh vực tư gia tăng, đầu tư ngoại quốc tăng, khai thác dầu, sản xuất hàng công nghiệp nhẹ, kỹ nghệ du lịch. Trong thời gian ngắn VN chuyển từ giao thương với các nước CS sang giao thương với Hồng Kông, Singapore, Nam Hàn, Đài Loan, Nhật…
Đó là cái nhìn của Tây phương về đổi mới.
Từ ngày CSVN thành hình cho tới cuộc chiến chống Pháp, Trường Chinh luôn là cánh tay phải đắc lực của họ Hồ, của đảng. Gần cuối năm 1956 ông ta từ chức Tổng bí thư vì cải cách ruộng đất, Lê Duẩn lên thay.
Nếu không có Cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn làm Tổng bí thư, ông ta không chống Tầu như Lê Duẫn, tôi nghĩ cuộc chiến sẽ nhỏ hơn trong những năm 1965, 1966, 1967… không đẫm máu như thời Lê Duẫn và chắc sẽ không có cuộc chiến Việt- Miên, Việt-Hoa cuối thập niên 70.

(còn tiếp)
© Đàn Chim Việt
———————————————————-

(1) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15
(2) Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH năm 1972, trang 22
(3) Street Without Joy trang 32
(4) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 47
(5) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine
(6) BBC.Vietnamese.com ngày 10-5-2006: Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh. Đăng Phong, Năm Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(7) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 20, 21.
(8) Cao Văn Viên, Những ngày cuối VNCH trang 92


*
*
02:09:pm 15/09/15


Nguyễn Văn Linh
Sinh ngày 1-7-1915, mất 27-4-1998, là Tổng bí thư CSVN từ 1986 tới 1991, người mở đường có công với đổi mới của kinh tề VN, tên thật là Nguyễn Văn Cúc.
Sinh tại xã Giai Phạm, Hưng Yên BV xuất thân gia đình công chức. Ngày 1-5-1930 Nguyễn Văn Linh bị Pháp bắt vì tội tuyên truyền chống Pháp bị tù Côn đảo cho tới 1936 được thả, cùng năm được kết nạp vào đảng CS Đông Dương. Ông hoạt động ở Hải Phòng, sau chuyển lên hoạt động ở Hà Nội, vào Sài Gòn dưới quyền bí thư Sài Gòn Nguyễn Thị Minh Khai.
Năm 1939 ông được điều ra miền Trung, năm 1941 NVL bị bắt ở Vinh và bị đầy đi Côn Đảo lần thứ hai. Năm 1945 ông hoạt động ở miền tây Nam bộ, sau đó ở Sài Gòn Chợ Lớn với cương vị bí thư thành ủy Sài Gòn. Năm 1947 Linh là thường vụ xứ ủy Nam bộ, năm 1955-1960 ông là Đặc khu uỷ Sài Gòn Gia Định. Năm 1957-1960 ông là quyền bí thư xứ ủy Nam bộ, năm 1960 tại Đại hội đảng lần thứ 3, được bầu vào BCHTƯ (1961-1964) làm Bí thư rồi Phó bí thư Trung ương cục miền nam.
Năm 1976 NVL làm Bí thư thành ủy TP Hồ chí Minh, tháng 12-1976 tại Đại hội 4 ông được vào BCHTƯ Bộ chính trị. Tại Đại hội 5 ông ta rút khỏi Bộ chính trị vào Sài Gòn làm Bí thư thành ủy năm 1981 thay Võ Văn Kiệt. Tháng 6-1986 khi Trường Chinh làm Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban bí thư Trung ương đảng, sau vào Bộ chính trị. Tháng 12-1986, tại Đại hội 6 NVL được bầu vào BCHTƯ, Ủy viên bộ chính trị, giữ chức Tổng bí thư đảng kiêm đảng ủy quân sự trung ương (1987).
Từ đây bắt đầu giai đoạn đổi mới, cởi mở của CSVN, sau nhiệm kỳ Tổng bí thư (1986-1991) ông xin lui không ứng cử nhiệm kỳ tiếp theo, ông mất năm 1998, thọ 83 tuổi. Khi còn là Bí thư thành ủy TP HCM, NVL thực hiện xóa bỏ quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Trong nhiệm kỳ làm TBT, NVL góp phần xoay chuyển tình thế mở đường cho đổi mới. Ông ta đưa ra quan niệm mới, ý tưởng mới cách làm mới, bỏ chế độ giai cấp lãnh đạo đi máy bay riêng, đi xe gắn máy lạnh, ông chống cái cũ, chống bảo thủ, giáo điều.
Trong một bài đăng tháng 6-1987, Nguyễn Văn Linh nói sau Đại hội 4 phát động nói thẳng nói thật, cho phê bình sửa chữa, chống trì trệ công khai đăng báo, phổ biến trên đài phát thanh nói về các sai lầm kể cả của cán bộ cao cấp. Về vấn đề đổi mới ông nói: chủ trương đổi mới toàn diện , đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với cách làm thích hợp, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, chống tham nhũng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Có người đánh giá Nguyễn Văn Linh lội ngược dòng chính trị, lịch sử. Ông ta vực dậy kinh tế TP HCM, là người đóng góp to lớn cho cách mạng. Phó giáo sư tiến sĩ Đào Công Tiến giảng nghĩa “định hướng xã hội chủ nghĩa” là tiến tới mục tiêu chống áp bức bóc lột bất công, tiến tới ấm no hạnh phúc…
Nhưng trên thực tế XHCN tại VN ngày nay đầy rẫy bất công áp bức, bóc lột, bọn thống trị ăn trên ngồi chốc, cha truyền con nối, chỉ có con ông cháu cha, con cái đảng viên được hưởng mọi ưu quyền đặc lợi ấm no hạnh phúc.

Đỗ Mười
Sinh ngày 2-2-1917 tên thật là Nguyễn Duy Cống, Tổng bí thư đảng CSVN từ tháng 6-1991 tới tháng 12-1997. Sinh trưởng trong một gia đình trung nông, lớn lên làm thợ sơn, năm 1936 tham gia Mặt trận dân chủ Đông Dương, năm 1939 gia nhập đảng CS Đông Dương, năm 1941 bị giam 10 năm tại Hỏa lò.
Năm 1945 Nguyễn Duy Cống vượt ngục tham gia khởi nghĩa tỉnh Hà Đông, sau cách mạng tháng tám, Cống giữ chức bí thư tỉnh ủy Hà Đông. Sau đó làm tỉnh ủy Hà Nam , bí thư tỉnh ủy Nam Định, bí thư Ninh Bình, Chính ủy kiêm tư lệnh liên khu 3. Năm 1955 Cống làm Bí thư thành ủy Hải Phòng, tháng 3-1955 Ủy viên dự khuyết trung ương đảng, năm 1956 Thứ trưởng Bộ nội thương. Năm 1960 Cống được bầu làm Ủy viên trung ương đảng khóa 3, đại biểu quốc hội khóa 2.
Năm 1961-1969 Cống làm Chủ nhiệm ủy ban vật giá nhà nước, năm 1969 làm Phó thủ tướng chủ nhiệm văn phòng kinh tế phủ Thủ tướng, năm 1971 Đại biểu quốc hội khóa 4, Phó thủ tướng. Năm1973 ông giữ chức Bộ trưởng bộ xây dựng, năm 1976 được bầu Ủy viên trung ương đảng, ủy viên dự khuyết Bộ chính trị. Năm 1977 ông giữ chức Phó thủ tướng, Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp XHCN, Phụ trách Cải tạo công thương nghiệp miền nam VN.
Năm 1981 Đỗ Mười làm đại biểu quốc hội khóa 7, Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng, năm 1982 ông được bầu vào Trung ương đảng, ủy viên Bộ chính trị. Năm 1988 ông làm Chủ tịch hội đồng bộ trưởng, năm 1991 được bầu làm Tổng bí thư trung ương đảng khóa 7, năm 1986 được bầu Tổng bí thư khóa 8, tháng 12-1997 ông từ nhiệm chức Tổng bí thư chuyển sang làm cố vấn trung ương đảng.
Đỗ Mười cổ võ đổi mới nhưng không thay cơ cấu chính trị, ông ta nói với báo chí: đảng ta vẫn theo xã hội chủ nghĩa, con đường duy nhất đúng. Đỗ Mười bị chỉ trích vì gây ra thảm kịch đánh tư sản ngày 23-3-1978 khi ông làm Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp. Mười cho khoảng 60 ngàn đoàn viên Thanh niên CS đi khắp nơi (tại miền nam) đóng cửa kiểm kê các nhà tư sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, thời gian này có tới mấy chục ngàn cơ sở thương mại bị đóng cửa trong một ngày.
Chiến dịch thất nhân tâm này khiến nhiều người phải tự tử và đi vượt biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng trợn, trấn lột tài sản các thương gia để bỏ túi chia chác nhau, lấy nhà phân phối cho các đảng viên từ ngoài Bắc vào. ước lượng có hai triệu người đi vượt biên, mấy trăm nghìn người thiệt mạng ngoài biển khơi.
Sau này Đỗ Mười bị kết án là người đã gây ra thảm kịch kinh tế miền nam sau 1975, đây là một kế hoạch ngu xuẩn khi đem một chủ nghĩa kinh tế mọi rợ, lạc hậu áp dụng vào một xã hội tấn tiến tại miền nam VN. Thập niên 50 Mười là người xử lý chuyên môn địa hạt kinh tế nhưng chỉ đối với một nền kinh tế lạc hậu bán khai. Những năm 1976-1979 ông ta thất bại trong việc tổng hợp hai nền kinh tế Bắc-Nam. Với cương vị người phụ trách cải tạo công thương nghiệp miền nam, ông ta toàn quyền như vua đã dồn hai nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa làm một. Những người chống Đỗ Mười kết án ông này chịu trách nhiệm nhiều nhất cho sự thất bại thê thảm nền kinh tế hậu chiến 1976.

Lê Khả Phiêu
Ông giữ chức Tổng bí thư CSVN từ tháng 12-1997 tới tháng 4 -2001, là người kế nhiệm Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu cũng là một Tướng lãnh cấp bậc Thượng tướng, Chủ nhiệm cục chính trị.
Phiêu sinh ngày 27-12-1931 ở ở làng Thượng Phúc, Thanh Hóa, năm 1945 tham gia phong trào Việt Minh, gia nhập đảng CSĐông Dương năm 1949. Đầu tháng 5-1950 ông gia nhập quân đội đi từ binh nhì lên chính trị viên đại đội. Từ 1954 tới 1958 giữ chức chính trị viên tiểu đoàn rồi trung đoàn,1966 giữ chức Chính ủy kiêm trung đoàn trưởng TĐ 9 sư đoàn 304.
Năm 1967 ông được điều động vào chiến trường Trị Thiên làm Chính ủy trung đoàn 9, năm 1970 giữ chức Phó chủ nhiệm chính trị quân khu Trị Thiên. Tháng 5-1974, khi Quân đoàn hai được thành lập ông được cử giữ chức chủ nhiệm cục chính trị Quân đoàn, cấp bậc Thượng tá.
Năm 1978 ông giữ chức Phó tư lệnh Quân khu 9, cấp bậc Đại tá, tháng 4-1984 được thăng Thiếu tướng giữ chức Phó tư lệnh chính trị kiêm chủ nhiệm chính trị, Phó bí thư ban cán sự Bộ tư lệnh quân tình nguyện VN tại Campuchia. Tháng 8-1988 CSVN rút quân, Lê Khả Phiêu được thăng Trung tướng, về làm Phó chủ nhiệm tổng cục chính trị. Tháng 9-1991ông giữ chức Chủ nhiệm tổng cục chính trị Quân đội nhân dân, năm 1992 được phong Thượng tướng.
Tháng 6-1992 tại Hội nghi BCHTƯ lần thứ 13, ông được bầu vào Ban bí thư trung ương đảng. Tháng 1-1994 tại Hội nghị toàn quốc, LK Phiêu được bầu vào Bộ chính trị, tháng 6-1996 được bầu ủy viên thường vụ Bộ chính trị
Ngày 26-12-1997 tại Hội nghị trung ương lần thứ 4, BCHTƯ đảng (khóa 8) Lê Khả Phiêu được giữ chức Tổng bí thư BCHTƯđảng CSVN, cũng là đại biểu qốc hội khóa 9, 10.
Trong một bài đăng trên BBC.Vietnamese ngày 22-6-2006 (Sự ra đi của một Tổng bí thư) có nói: tại Đại hội đảng lần thứ 9 của CSVN (từ 19-4 đến 22-4-2001) Lê Khả Phiêu bị hạ bệ, Nông Đức Mạnh được cử lên thay. Đầu năm 2001 Lê Khả Phiêu bị nội bộ đảng chỉ trích.
Bộ chính trị bỏ phiếu tỷ lệ 12/6 đồng ý để ông Lê Khả Phiêu ở lại tới năm 2003 nhưng ngày 17-4, tại cuộc họp các đại biểu (toàn quốc) trước khi chính thức khai mạc đại hội 9 đã đảo ngược quyết định của Bộ chính trị và bỏ phiếu hạ bệ Tổng bí thư.
Lê Khả Phiêu giữ chức TBT từ 1997 bị cáo buộc là người có nhiều tham vọng, muốn làm Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch nước (y như bác Hồ). Phiêu bị tai tiếng là người bè phái, bổ nhiệm nhiều người xứ Thanh Hóa, ngoài ra bị cáo buộc đã dùng tình báo quân đội để theo dõi các Ủy viên bộ chính trị. Dưới thời Lê Khả Phiêu, kinh tế bị thoái trào, tham nhũng mạnh, đầu tư nước ngoài vào VN giảm từ 4 tỷ đô la năm 1998 xuống còn 1,48 tỷ năm 1999.
LKP không muốn cải tổ doanh nghiệp quốc doanh cùng những lời phát biểu ý thức hệ của ông khiến ông bị kết án là bảo thủ và ngả về Trung Quốc. Tại Hội nghị Bắc Kinh, Lê Khả Phiêu nhượng bộ Trung Cộng về sự phân định vịnh Bắc Bộ không có sự chấp thuận trước của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương và cả Bộ ngoại giao. Phiêu không tôn trọng những người đã đưa ông lên làm lãnh đạo, năm 1997 ông lên giữ chức Tổng bí thư chủ yếu là do Lê Đức Anh bảo trợ.
Tháng 4-2001 ban cố vấn gồm Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh đã gây sức ép buộc Lê Khả Phiêu phải ra đi. Phiêu đã tính bãi bỏ chức cố vấn nhưng họ đã ra tay trước, ông ta không có quan hệ tốt với các ủy viên Bộ chính trị, xì căng đan nghe lén, và bị cáo buộc quá thân Tầu.
Hệ thống chính trị CSVN đã thay đổi, trước đây thế hệ lãnh đạo có các quan hệ bảo trợ (tức tay chân thân tín) và quan hệ rộng trong ba lãnh vực đảng, quân đội và nhà nước. Thế hệ lãnh đạo gần đây không sở hữu một hệ thống quyền lực như thế. Lê Khả Phiêu không mạnh như Lê Duẫn nên đã bị hạ bệ, ông ta không củng cố được một nền móng quyền lực mạnh.

Nông Đức Mạnh
Ông làm Chủ tịch quốc hội từ 1992-2001, sinh ngày 11-9-1940 tại xã Cường Lợi, Bắc Kạn, xuất thân nông dân, dân tộc Tày.
Mạnh tham gia cách mạng từ 1958, vào đảng CS ngày 5-7-1963, từ 1958-1961 học trường trung cấp Nông lâm Hà Nội. Hai năm sau ông làm công nhân lâm nghiệp ty lâm nghiệp Bắc Kạn. Năm 1967-1971 Mạnh du học về lâm nghiệp tại Leningrad Liên sô. Năm 1972-1973 ông về nước làm Phó ban thanh tra ty lâm nghiệp, năm 1973-1974 làm Giám đốc lâm trường Phú Lương, năm 1974-1976 theo học trường đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Năm 1976-1978 Mạnh làm Tỉnh ủy viên, trưởng ty lâm nghiệp Bắc Thái, năm 1980-1984 làm Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch ủy ban nhân dân Bắc Thái, từ 1984-tháng 10/1986 giữ chức Chủ tịch ủy ban nhân dân Bắc Thái.
Từ tháng 11-1986 tơi tháng 2-1989 Mạnh giữ chức Tỉnh ủy Bắc Thái, Ủy viên dự khuyết trung ương đảng, tháng 3 -1989 tại Hội nghị BCH trung ương khóa 6, Mạnh được vào Ủy viên chính thức trung ương đảng. Tháng 11-1989 được bầu bổ sung đại biểu quốc hội. Tháng 6-1991,tại Đại hội 7 Trung ương đảng, Mạnh được bầu vào Bộ chính trị. Tháng 9-1992 Nông Đức Mạnh được bầu làm Chù tịch quốc hội khóa 9, tháng 9-1997 Chủ tịch quốc hội khóa 10, tháng 1-1998 được phân công thường vụ Bộ chính trị.
Tháng 4-2001, tại Đại hội toàn quốc khóa 9 Nông Đức Mạnh được bầu vào BCHTƯ và Tổng bí thư Ban CHTƯ. Tháng 4-2006, tại Đại hội 10, Mạnh lại được bầu làm Tổng bí thư đảng.
Có tin đồn Nông Đức Mạnh là con không chính thức của Hồ Chí Minh và Nông Thị Trưng (1920-2003) đã là quản gia của “bác” những năm 1941, 1942, chuyện này có thể là lý do ông được đưa lên ngôi vị Tổng bí thư. Một tờ báo tóm lược thân thế Nông Đức Mạnh sau khi ông này được giữ chức Tổng bí thư, bà Trưng được coi là mẹ ông.
Ngày sinh trong tiểu sử chính thức của NĐM là 11-9-1940 khi ấy ông Hồ còn ở bên Tầu, về VN tháng 2-1941 và gặp bà Trưng tháng 7-1941. HCM có làm một bài thơ tặng cho Trưng năm 1944 và tặng bà này một cuốn sổ, ông đề một hàng chữ “Tặng cháu Nông Thị Trưng để chúc cháu học tập tốt”. Bài thơ ấy sau được dậy cho các học sinh tiểu học. Tháng 4-2001 một ký giả hỏi ông trong một cuộc họp báo xin ông xác nhận lời đồn thì ông đáp: “Mọi con dân VN đều là con cháu bác Hồ”. Tháng giêng năm 2002, một ký giả của báo Time Asia lại hỏi ông về tin đồn này, ông phủ nhận không phải là con của bác Hồ và cha ông tên là Nông Văn Lai, mẹ ông Hoàng Thị Nhị.
Trong bài VN từ 1990, William S. Turley có nói về Nông Đức Mạnh: (Lê Khả Phiêu) bất lực vì tham nhũng và tăng trưởng trì trệ khiến các nhà lãnh đạo quyết định thay Lê Khả Phiêu bằng Nông Đức Mạnh vào tháng 4-2001. Ông này bắt tay vào việc bài trừ tham nhũng, hội nhập nhiều hơn vào kinh tế toàn cấu. Tổng sản lượng (GDP) lại tăng mạnh, giao thương với Mỹ được tái lập. Cuối năm 2006, VN được chấp thuận trở thành hội viên thứ 150 của WTO, tổ chức thương mại quốc tế kể từ tháng giêng 2007.

Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng đương nhiệm CSVN, ông là Thủ tướng nhiều quyền lực nhất của CSVN từ trước đến nay. Trước đây đảng chỉ huy nhà nước, nhưng dần dần trong cơ chế CSVN đảng nới bớt sự kiểm soát chính phủ, vai trò chỉ đạo của đảng đã mờ nhạt dần.
Dũng sinh ngày 17-11-1949 tại cà Mâu, còn gọi là Ba Dũng. Năm 1961 tham gia bộ đội, làm liên lạc viên, rồi cứu thương, y tá, y sĩ. Các chức vụ đã giữ: tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội phó, ngày 10-6-1967 gia nhập đảng lao Động VN. Năm 1969 Dũng cấp bực trung úy, đã thoát chết trong một trận càn quét của địch tại Cà Mâu. Ngày 30-4-1975, Ba Dũng cấp bậc trung úy, chính trị viên đại đội quân y Rạch Giá. Sau 1975, Ba Dũng giữ các cấp bậc chức vụ Thượng úy, chính trị viên tiểu đoàn, Đại úy, chủ nhiệm chính trị trung đoàn, Thiếu tá, trưởng ban cán bộ Kiên Giang.
Tháng 10-1981, Ba Dũng phục viên (giải ngũ) tham gia chính trị, giữ các chức vụ Tỉnh ủy Kiên Giang, Bí thư đảng ủy quân sự Kiên Giang. Tháng 1-1995 Ba Dũng giữ chức Thứ trưởng bộ nội vụ, được bầu Ủy viên trung ương đảng tại đại hội lần 6 (1986) và lần 7 (1991). Ngày 1-7-1996 ông được bầu làm Ủy viên bộ chính trị, Bí thư BCHTƯ, Trưởng ban kinh tế trung ương.
Tháng 9-1997 Đại biểu quốc hội khóa 10, Thủ tướng PhanVăn Khải cử NTDũng làm Phó thủ tướng, Chủ tịch hội đồng tài chính. Tháng 5-1998 Quốc hội thông qua cử Ba Dũng làm Tống đốc ngân hàng nhà nước và giữ chức vụ này cho tới 1999. Ngày 16-5-2006 Thủ tướng Phan Văn Khải đề cử Nguyễn Tân Dũng thay ông ta tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội ngày 27-6-2006 và ông được bầu làm tân Thủ tướng trẻ nhất trong 20 năm trước đó. Ngày 25-7-2007, kỳ họp Quốc hội khóa 12 Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục được ủng hộ bầu làm Thủ tướng với tỷ lệ 96,96%. Ngày 26-7-2011 Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử Thủ tướng nhiệm kỳ 2 tại kỳ họp Quốc hội thứ 13 với tỷ lệ 94%.
Về đối ngoại, Nguyễn Tân Dũng là một nhân vật cải cách, VN trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế Quốc tế WTO. Trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008-2009, lạm phát tại VN cao nhất khu vực 25%. Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua gói kích cầu 8 tỷ đô la nhưng bị coi là thất bại không đạt mục đích, các khu vực không khởi sắc ngoại trừ thị trường chứng khoán. Thâm hụt ngân sách lên 8% so với 5% năm 2008. Tới 2010 ảnh hưởng tệ hại hơn: bội chi ngân sách báo động, dự trữ ngoại hối quá thấp, bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ gây khó khăn kinh tế, Quĩ tiền tệ quốc tế IMF và Ngân hàng thế giới WB đề nghị VN thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô. Ngày 20-10-2012 Nguyễn Tấn Dũng xin lỗi trước Quốc hội về những yếu kém, khuyết điểm của chính phủ trong sự lãnh đạo, quản lý, điều hành.
Ngày 11-6-2009 lần đầu tiên một Thủ tướng của CSVN bị thưa kiện, Luật sư Cù Huy Hà Vũ kiện ông Dũng vi hiến về ký quyết định khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên VN vì có luật bảo vệ môi trường nhưng tòa án Hà Nội đã bác đơn kiện này.
Trong nhiệm kỳ đầu của Nguyễn Tấn Dũng kinh tế bị bất ổn nghiêm trọng gồm nhiều rủi ro suy thoái, kinh tế VN bất ổn nhiều so với các nước trong khu vực. Nguyễn Tấn Dũng bị đặt câu hỏi về khả năng quản lý kinh tế, trước khi ông ta làm Thủ tướng (năm 2006) tốc dộ tăng trưởng khả quan như sau:
7,08% năm 2002, 7,34% năm 2003, 7,79% năm 2004 và 8,44% năm 2005. Khi Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng Tổng sản lượng quốc gia giảm mạnh: năm 2007 đạt tỷ lệ 8,23%, năm sau 2008 tỷ lệ xuống 6,31%, năm 2009 xuống còn 5,32%, năm 2010 tăng chút đỉnh 6,78%, năm 2011 khoảng hơn 5% . Lạm phát tăng cao nhất châu Á, đời sống nhân dân khó khăn, mức thu nhập giai đoạn 2008-2010 tăng bình quân 9,3% nhưng lạm phát lên cao 40%. Nguyễn Tấn Dũng phá giá tiền tệ 4 lần trong vòng 14 tháng tính tới ngày 13-2-2011.
Trong kỳ họp Quốc hội khóa 13 Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận có sai lầm trong quản lý kinh tế. Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Đại sứ VN tại Trung Cộng (1974-1987) chỉ trích Dũng không không có năng lực quản lý xã hội, kinh tế, các tập đoàn kinh tế Vinashin, Vinalines … đã thất thoát hằng nghìn tỷ của nhân dân. Nguyễn Trọng Vĩnh cũng chỉ trích Nguyễn Tấn Dũng độc đoán, độc tài.
Từ một sĩ quan cấp úy năm 1975 Nguyễn Tấn Dũng đã leo lên đỉnh cao quyền lực, một phần vì cơ chế chinh trị đổi thay, đảng không còn chỉ huy nhà nước mạnh như xưa. Vai trò của đảng bị lu mờ, lịch sử sang trang, nay việc kết nạp đảng viên khó khăn, đảng đã phải tổ chức vũ sexy khêu gợi mà vẫn ế khách. Theo nhận xét của William S. Turley (trong bài VN từ 1990) thì hiến pháp mới (CSVN) năm 1992 như một bước tiến về việc đảng nới lỏng sự kiểm soát chính quyền (… a new constitution enacted in 1992 was seen as a step toward loosening party control of the government…) . Ngoài ra một phần do Ba Dũng khôn ngoan cài đặt tay chân thân tín vào trong bộ máy công an và quân đội mà danh từ CS gọi là người bảo trợ.
Giống như Đặng Tiểu Bình thập niên 70, 80, 90 trước đây dù chỉ là Phó thủ tướng, Phó chủ tịch đảng nhưng thực sự năm vận mệnh nước Tầu, Nguyễn Tấn Dũng là người lãnh đạo đất nước CSVN hiện nay mặc dù ông ta không phải là Chủ tịch nước hay Tổng bí thư đảng. Theo trang mạng Dân Làm Báo, ông Ba đang cài đặt thân tín bộ hạ tại các địa phương để đoạt nhiều phiếu trong kỳ Đại hội tới và sẽ nắm luôn chức Tổng bí thư cũng như Chủ tịch nước.
Nay Tổng Sản lượng quốc gia VN trong khoảng từ 180-187 tỷ, đứng vào khoảng từ thứ 55-57 (9) trên thế giới, tăng trưởng kinh tế khoảng 6% năm 2014, 2015. Lợi tức đầu người khoảng 2000 đô la một năm (10) (gần bằng 1/3 lợi tức Tầu), đứng thứ khoảng từ 130-138 trong số 180 nước trên thế giới. VNCS hiện là một nước nghèo đói lạc hậu, sản xuất cũng như xuất cảng còn yếu kém, trên thực tế chỉ làm gia công cho các nước đầu tư. Các nguồn lợi chính là tiền Việt kiều gửi về khoảng 13 tỷ đô la một năm (con số do nhà nước đưa ra) khai thác dầu khí, tài nguyên thiên nhiên, đầu tư nước ngoài, dịch vụ….Mặc dù được quốc tế trợ giúp nhiều nhưng giới lãnh đạo phí phạm tài nguyên, tham nhũng, quản lý tồi khiến cho nền kinh tế lụn bại không khá nổi.
So với các nước lân bang tại Đông nam Á về mặt kinh tế, người ta ước lượng nước VNCS sẽ phải mất khoảng từ 15 tới 20 năm để theo kịp Đại Hàn, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông…và khoảng 10 năm để theo kịp Thái Lan, Mã lai.. cũng như khoảng 7 năm để theo kịp Phi luật Tân, Nam Dương…Hiện nay mức sống còn thua cả Miên, Lào.
Tài sản tập trung tay một số người mà hầu hết là các viên chức, đảng viên cao cấp, những người này sở hữu hằng tỷ đô la gồm tiền ký gửi tại ngoại quốc, đất đai, khách sạn, cơ sở dịch vụ, xí nghiệp…. Những người có mức sống cao đa số đảng viên hoặc có liên hệ họ hàng với cán bộ. Tại Đông Nam Á nay chưa có nước nào chênh lệch giầu nghèo ghê tởm như tại nước Xã hội chủ nghĩa (giả hiệu) VN. Nhà giầu không ai khác hơn là các nhà tư sản đỏ, đảng viên, họ kinh doanh làm ăn lớn rồi chuyển những số tiền khổng lồ ăn cắp của nhân dân ra nước ngoài.
Ví như khi ta gửi 100 đô la qua dịch vụ cho thân nhân ở VN, không phải rằng họ đưa số tiền đó về nước mà họ sẽ lấy số tiền tiền này tại VN đưa cho thân nhân ta và số tiền ta gửi sẽ được đưa vào trương mục của tư sản đỏ tại Mỹ. Nước mưa xuống suối lại xuôi về nguồn, người Mỹ vừa được tiếng nhân đạo, họ lại chẳng mất gì. Con cháu Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Lê Duẫn, Nguyễn Tấn Dũng…đều được du học bên Nga, Âu Mỹ, họ toàn là phú gia địch quốc, con rể Ba Dũng mới mua đội banh hai trăm triệu đô tại Mỹ.
Phó GS Tiến sĩ Đào Công Tiến đã giảng “định hướng xã hội chủ nghĩa” là tiến tới mục tiêu con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, đạt được cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc; nhân dân lao động làm chủ.
Hoàn toàn láo khoét, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ bóc lột, áp bức kinh tởm nhất trong lịch sử nhân loại, hồi xưa tại miền nam người ta hay nhắc câu ngạn ngữ:
“Bọn thực dân, phong kiến, tư bản làm thịt lợn chúng ăn thịt nạc, nhân dân còn có miếng xương mà gặm, thằng Cộng sản nó ăn cả cứt, nhân dân không có đến một miếng xương”
Cương lĩnh 1991 của Đảng khẳng định rõ xã hội XHCN là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhưng trên thực tế đạo đức xã hội VN nay hoàn toàn băng hoại, đĩ điếm trộm cướp, xì ke ma túy… tràn lan khắp nơi. Người ta ước lượng một khi chế độ CS sụp đổ, phải mất vài thế hệ mới xây dựng lại xã hội lành mạnh như trước.
Hình thành 1945, CSVN sống sót và lớn mạnh từ khi Mao chiếm được Hoa Lục 1949, 50. Họ đã làm đổ quá nhiều xương máu của nhân dân để theo tiến lên chủ nghĩa xã hội chết đói, nay quay đầu lại kinh tế tự do.
Nhiều người nói Việt Nam xấu hổ vì có đảng Cộng sản

© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
—————————————————————-
(9) List of countries by GDP (nominal), Wikipedia
(10) List of countries by GDP (nominal) per capita Wikipedia





No comments:

Post a Comment

View My Stats