Mon,
01/19/2015 - 13:15 — nguyentuongthuy
Nhân
41 năm ngày mất Hoàng Sa
41
năm nay, Hoàng Sa là một nỗi đau nhức nhối trong tâm khảm người Việt Nam. Làm
thế nào để giành lại Hoàng Sa? Đó là câu hỏi đau đáu của mỗi người VN yêu nước.
Để giành lại HS về đất mẹ, điều này vô cùng khó khăn. Nhưng không phải vì thế
mà buông xuôi, theo kiểu đời này không đòi được thì đời sau con cháu sẽ đòi. Lối
nói đó nhằm phủi trách nhiệm và bao biện cho thái độ lần lữa trong việc đòi lại
chủ quyền của Đất nước.
Bằng
chứng để chứng minh Hoàng Sa (và cả Trường Sa) là của Trung Quốc gần như không
có, ngoài mấy lý lẽ cù nhầy như trên đảo có xương của người Hán cùng với mấy mảnh
gốm sứ được tìm thấy… Lập tức, TC bị VN phản bác lại: Gò Đống Đa cũng có rất
nhiều xương người TQ, chẳng lẽ Thăng Long cũng là đất của TQ sao? Câu đáp trả rất
sắc sảo đó làm cho TC cay cú và rụt chuyện xương xẩu, sành sứ lại.
Ngược
lại, xét về lịch sử, bằng chứng của VN rất chắc chắn, đó là nhà nước Việt Nam kể
từ thời Nguyễn đã liên tục thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này cho đến
tận khi bị TC cưỡng chiếm.
Về
lý lẽ và bằng chứng cụ thể để khẳng định hai quần đảo nói trên của VN là việc của
các học giả, các nhà ngoại giao và nhiều bài viết đã trình bày nên xin không nhắc
lại.
Bây
giờ TC chỉ có thể bám nhằng lấy công hàm của ông Phạm Văn Đồng ký ngày
14/9/1958 và loa lên rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận HS, TS là của
TQ. Cho đến nay, về phía chính phủ VN chưa bao giờ bác bỏ công hàm (công thư) của
ông Phạm Văn Đồng mà lý giải theo hướng khác. Một trong những lý lẽ đó là công
hàm chỉ nói VN tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ chứ không hề nhắc đến HS, TS
nên không thể suy diễn thành VN công nhận HS, TS là của TQ. Cách lý giải này có
vẻ như đúng với câu chữ trong công hàm mà ông PVĐ đã cân nhắc. Những giải thích
khác như quan hệ đặc thù, bối cảnh lịch sử… xem chừng khó thuyết phục.
Nhưng
có một lý lẽ thuyết phục nhất mà gần đây, báo chí Việt nam đồng loạt đưa ra, đó
là: Trong thời điểm 1958, hai quần đảo HS, TS thuộc quyền quản lý của Nhà nước
Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý nên không có quyền
xác nhận hai quần đảo đó là của TQ. Tức là, người ta không thể cho cái mà không
có trong tay.
Có
lẽ Đại đoàn kết là tờ báo đầu tiên đưa ra luận điểm này, với bài “Công
hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” (20/07/2011)
Bài
báo viết “theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này
theo luật pháp quốc tế”
Vào
thời điểm TC đem giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của VN (tháng 5/2014), báo chí VN phản công rầm rộ. Nhiều tờ báo dẫn lại đọan
trích trên của Đại Đoàn Kết hoặc dựa theo luận điểm này để bác bỏ sự suy diễn của
TC cho rằng Công hàm 1958 đã công nhận HS và TS là của TQ.
Còn
báo điện tử của Chính phủ viết:
"Chính
quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời
của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản
hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai chủ quyền thực tế trên hai quần
đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm
lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974".
Ông
Trần Công Trục nguyên trưởng ban Biên giới của Chính phủ trong chương trình thời
sự 19 giờ ngày 22/5/2014 của đài VTV1 giải thích:
“Các
bạn hãy nhớ rằng tuyên bố của chúng ta vào thời kỳ 1958 nghĩa là cái lúc mà hai
miền Bắc, Nam được hiệp định Genève ký kết năm 1954 phân chia quyền quản lý cho
2 nhà nước với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế là Việt Nam dân chủ cộng
hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Quần đảo Hoàng Sa của chúng ta nằm dưới vĩ tuyến 17
thuộc quyền quản lý của VNCH với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo
hiệp định Genève, Và vì vậy, mọi tuyên bố, mọi hành vi của VNCH có giá trị pháp
lý thay mặt Nhà nước VN quản lý vùng đất ấy còn VNDCCH chúng ta không trực tiếp
quản lý. Vì vậy cho dù tuyên bố đó như thế nào thì giá trị pháp lý trong quan hệ
quốc tế không có. Cho nên TQ họ muốn dùng tất cả mọi lý lẽ để nói rằng chúng ta
thừa nhận thì đấy hoàn toàn là sự bịa đặt”.
Mời xem
lại tại đây (từ phút thứ 6) :
Quần
đảo Hoàng Sa của VN
Không
phải ngẫu nhiên mà báo chí VN thừa nhận vấn đề này mặc dù đó là thực tế. Nó được
đưa ra trong bối cảnh chủ quyền của Đất nước bị đe dọa tới mức không thể chấp
nhận được nữa.
Như
vậy, Chính thể Miền Nam Việt Nam từ 1954 (đến 1975) trong những năm gần đây đã
được nhìn nhận là một Nhà nước có chủ quyền, là một chủ thể trong quan hệ quốc
tế.
Tuy
nhiên, nếu chỉ dừng lại như thế thì chưa đủ cơ sở pháp lý cho cách nhìn nhận
này. Điều cần làm tiếp theo là nâng vấn đề này lên thành quan điểm quốc gia, chứ
không thể chỉ để cho báo chí hoặc một ông “nguyên” nào đó phát biểu. Đó là, Bộ
Ngoại giao phải ra tuyên bố dưới góc nhìn này và các nhà lãnh đạo cao nhất cần
lên tiếng. Đồng thời, phải tuyên dương công trạng và cư xử bình đẳng đối với
các anh hùng, tử sĩ đã hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa cũng như đối với gia đình họ.
Và
đương nhiên, những từ ngụy quân, ngụy quyền, lính ngụy... phải vĩnh
viễn mất đi trong báo chí và lối nói thường ngày.
Làm
những việc này, quả thật là rất khó khăn đối với Đảng CSVN và Nhà nước VN vì những
vấn đề đặt ra tiếp theo như công nhận thể chế Việt Nam Cộng hòa và như vậy, bản
chất của cuộc chiến tranh 1955 – 1975 cũng phải xác định lại cho đúng với thực
chất, chứ không phải là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước như trước nay vẫn
tuyên truyền.
Mặc
dù thế, nhưng nếu biết đặt lợi ích Dân tộc, lợi ích của Đất nước lên trên hết
thì những việc làm đó không phải là điều không thể.
19/1/
2015
NTT
No comments:
Post a Comment