03.02.2013
Muốn nghiên cứu về
xã hội dân sự tại Việt Nam, có một vấn đề cần phải giải quyết trước tiên:
Phương pháp luận.
Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Malaysia (1), P. Ramasamy nêu lên một nhận xét đáng chú ý: Các quan điểm của các lý thuyết gia tự do, từ Locke đến Kant, Mill và Adam Smith, xem xã hội dân sự như một không gian riêng và độc lập với nhà nước và là một dấu chỉ của dân chủ dường như chỉ thích hợp với Tây phương. Rồi ông đề nghị: Với các nước Đông Nam Á, khung lý thuyết về xã hội dân sự của Antonio Gramsci có vẻ hữu ích hơn. Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Campuchia và Việt Nam, Ingrid Landau tán đồng quan điểm ấy (2). Tôi cũng tán đồng. Nhưng xin nhấn mạnh: Tôi chỉ tán đồng việc sử dụng lý thuyết của Gramsci như một công cụ phân tích để nghiên cứu về bản chất của xã hội dân sự tại Việt Nam, đặc biệt, để hiểu quan niệm và từ đó, chủ trương của nhà cầm quyền Việt Nam.
Gramsci, sinh năm 1891 tại Ý, là một người tài hoa trong nhiều lãnh vực: ngôn ngữ học, văn học, xã hội học và chính trị học. Là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản tại Ý, ông bị nhà cầm quyền Mussolini bắt bỏ tù từ năm 1926 đến năm 1934. Ba năm sau ngày được tự do, ông mất lúc mới 46 tuổi. Trong thời gian ở tù (hơn tám năm), ông viết trên 30 cuốn sổ tay và 3000 trang sách về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến lịch sử, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Tất cả đều theo quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Gramsci chia xã hội thành hai lãnh vực: xã hội chính trị (political society, bao gồm chính phủ, cảnh sát, quân đội, hệ thống luật pháp…) và xã hội dân sự (civil society, bao gồm từ gia đình đến giáo dục, các tổ chức nghề nghiệp…). Gramsci, giống Marx, cho, một, hai lãnh vực này đều gắn liền với việc phân chia giai cấp và quan hệ sản xuất; hai, dưới chế độ tư bản, đều là công cụ của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, Gramsci có một số điểm khác với Marx. Trước hết, ông đi sâu hơn Marx trong việc phân tích bản chất chính trị của cái gọi là nhà nước tư bản. Gramsci cho nhà nước tư bản cai trị bằng cả lực lượng lẫn sự đồng thuận: xã hội chính trị là lãnh giới của lực lượng (cả quân sự, cảnh sát lẫn kinh tế) trong khi xã hội dân sự là lãnh giới của sự đồng thuận. Trong khi với Marx, việc giải quyết hai lãnh vực này của chế độ tư bản tương đối đơn giản: triệt tiêu; với Gramsci, sau khi nhà nước tư bản sụp đổ, xã hội dân sự vẫn tiếp tục là một trận địa, một vùng tranh chấp giữa các ý tưởng và lý tưởng khác nhau, mâu thuẫn với nhau, không ngừng xung đột với nhau. Đó cũng là nơi nhà nước phải chiến thắng để bảo vệ vai trò thống trị của mình. Nói cách khác, đó là nơi để nhà nước tuyên truyền và vận động quần chúng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đảng Cộng sản khác hiểu rất rõ và áp dụng một cách rất triệt để các quan niệm của Gramsci.
Thứ nhất, trước thời đổi mới, họ hoàn toàn cấm đoán mọi hình thức xã hội dân sự. Trên hiến pháp, họ vẫn thừa nhận quyền lập hội cũng như quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của dân chúng, nhưng trên thực tế, họ không cho phép bất cứ một tổ chức nào được hoạt động mà không nằm dưới sự chỉ đạo cũng như quản lý của họ.
Thứ hai, họ tạo nên một thứ xã hội dân sự giả để, một, chứng tỏ với thế giới là họ có dân chủ; hai, để làm thành một vùng độn giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Hình thức giả ấy chính là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (3), bao gồm trên 30 tổ chức khác nhau:
Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Malaysia (1), P. Ramasamy nêu lên một nhận xét đáng chú ý: Các quan điểm của các lý thuyết gia tự do, từ Locke đến Kant, Mill và Adam Smith, xem xã hội dân sự như một không gian riêng và độc lập với nhà nước và là một dấu chỉ của dân chủ dường như chỉ thích hợp với Tây phương. Rồi ông đề nghị: Với các nước Đông Nam Á, khung lý thuyết về xã hội dân sự của Antonio Gramsci có vẻ hữu ích hơn. Trong một bài viết về xã hội dân sự ở Campuchia và Việt Nam, Ingrid Landau tán đồng quan điểm ấy (2). Tôi cũng tán đồng. Nhưng xin nhấn mạnh: Tôi chỉ tán đồng việc sử dụng lý thuyết của Gramsci như một công cụ phân tích để nghiên cứu về bản chất của xã hội dân sự tại Việt Nam, đặc biệt, để hiểu quan niệm và từ đó, chủ trương của nhà cầm quyền Việt Nam.
Gramsci, sinh năm 1891 tại Ý, là một người tài hoa trong nhiều lãnh vực: ngôn ngữ học, văn học, xã hội học và chính trị học. Là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản tại Ý, ông bị nhà cầm quyền Mussolini bắt bỏ tù từ năm 1926 đến năm 1934. Ba năm sau ngày được tự do, ông mất lúc mới 46 tuổi. Trong thời gian ở tù (hơn tám năm), ông viết trên 30 cuốn sổ tay và 3000 trang sách về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến lịch sử, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Tất cả đều theo quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Gramsci chia xã hội thành hai lãnh vực: xã hội chính trị (political society, bao gồm chính phủ, cảnh sát, quân đội, hệ thống luật pháp…) và xã hội dân sự (civil society, bao gồm từ gia đình đến giáo dục, các tổ chức nghề nghiệp…). Gramsci, giống Marx, cho, một, hai lãnh vực này đều gắn liền với việc phân chia giai cấp và quan hệ sản xuất; hai, dưới chế độ tư bản, đều là công cụ của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, Gramsci có một số điểm khác với Marx. Trước hết, ông đi sâu hơn Marx trong việc phân tích bản chất chính trị của cái gọi là nhà nước tư bản. Gramsci cho nhà nước tư bản cai trị bằng cả lực lượng lẫn sự đồng thuận: xã hội chính trị là lãnh giới của lực lượng (cả quân sự, cảnh sát lẫn kinh tế) trong khi xã hội dân sự là lãnh giới của sự đồng thuận. Trong khi với Marx, việc giải quyết hai lãnh vực này của chế độ tư bản tương đối đơn giản: triệt tiêu; với Gramsci, sau khi nhà nước tư bản sụp đổ, xã hội dân sự vẫn tiếp tục là một trận địa, một vùng tranh chấp giữa các ý tưởng và lý tưởng khác nhau, mâu thuẫn với nhau, không ngừng xung đột với nhau. Đó cũng là nơi nhà nước phải chiến thắng để bảo vệ vai trò thống trị của mình. Nói cách khác, đó là nơi để nhà nước tuyên truyền và vận động quần chúng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đảng Cộng sản khác hiểu rất rõ và áp dụng một cách rất triệt để các quan niệm của Gramsci.
Thứ nhất, trước thời đổi mới, họ hoàn toàn cấm đoán mọi hình thức xã hội dân sự. Trên hiến pháp, họ vẫn thừa nhận quyền lập hội cũng như quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của dân chúng, nhưng trên thực tế, họ không cho phép bất cứ một tổ chức nào được hoạt động mà không nằm dưới sự chỉ đạo cũng như quản lý của họ.
Thứ hai, họ tạo nên một thứ xã hội dân sự giả để, một, chứng tỏ với thế giới là họ có dân chủ; hai, để làm thành một vùng độn giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Hình thức giả ấy chính là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (3), bao gồm trên 30 tổ chức khác nhau:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Quân đội nhân dân Việt Nam
3. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
4. Hội nông dân Việt Nam
5. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
6. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
7. Hội cựu chiến binh Việt Nam
8. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật
Việt Nam
9. Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật
Việt Nam
10. Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn
kết hữu nghị Việt Nam
11. Hội luật gia Việt Nam
12. Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam
13. Hội nhà báo Việt Nam
14. Hội chữ thập đỏ Việt Nam
15. Tổng hội y dược học Việt Nam
16. Hội Đông y Việt Nam
17. Hội khoa học lịch sử Việt Nam
18. Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam
19. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
20. Tổng hội thánh Tin Lành Việt Nam
21. Hội người mù Việt Nam
22. Hội làm vườn Việt Nam
23. Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt
Nam
24. Hội sinh vật cảnh Việt Nam
25. Hội dân số và kế hoạch hóa gia đình
Việt Nam
26. Hội người cao tuổi Việt Nam
27. Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi
Việt Nam
28. Hội khuyến học Việt Nam
29. Hội châm cứu Việt Nam
30. Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước
ngoài
31. Phòng thương mại và công nghiệp
32. Hội nạn nhân chất độc da cam – dioxin
(4)
Nhìn vào danh sách trên cũng như đọc các điều khoản trong bộ Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, ví dụ: khoản 2, điều 1 “Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân mới…” (5), chúng ta thấy ngay Mặt trận Tổ Quốc cũng như tất cả các tổ chức con của nó không phải, tuyệt đối không phải là xã hội dân sự. Đó chỉ là một tổ chức chính trị nằm trong bộ máy nhà nước: Tất cả các thành viên ở đó đều là cán bộ nhà nước và tất cả những người lãnh đạo của nó đều do đảng cầm quyền bổ nhiệm, hơn nữa, bao giờ cũng phải nằm trong Trung ương đảng.
Thứ ba, từ thời đổi mới, dưới áp lực từ cả quốc tế lẫn quốc nội, nhà cầm quyền Việt Nam phải ít nhiều mở cửa cho xã hội dân sự. Chỉ mở he hé ở hai khía cạnh: Một, cho phép một số tổ chức phi chính phủ quốc tế đặt văn phòng tại Việt Nam (vừa để nhận tiền viện trợ vừa để ve vãn thế giới); hai, cho phép, một cách hạn chế, một số tổ chức vô thưởng vô phạt như các hội nuôi chim, chơi cá cảnh, các câu lạc bộ thơ văn của người già, hội doanh nhân, v.v. hoạt động. Kết quả là trong hơn hai thập niên vừa qua, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận có vẻ như nở rộ ở Việt Nam. Năm 1990, số hội đoàn đăng ký ở cấp địa phương là trên 300, cấp quốc gia là 124; mười năm sau, vào năm 2000, thuộc loại trên là hơn 1400, loại dưới là hơn 200 (6). Tổ chức Asia Foundation ước tính ở thời điểm từ cuối năm 2011 đến đầu năm 2012, ở Việt Nam có khoảng từ 1700 đến 2000 tổ chức xã hội dân sự (7). Tuy nhiên, dù nở rộ, những con số lớn lao ấy cũng không làm thay đổi diện mạo xã hội dân sự tại Việt Nam. Chính quyền Việt Nam vẫn tìm mọi cách để vô hiệu hóa các tổ chức phi chính phủ đang có mặt trong nước: Họ giới hạn chức năng của các tổ chức ấy vào việc hỗ trợ thay vì phê phán hay thách thức quyền lực của nhà nước (8). Về mặt tuyên truyền, với dân chúng Việt Nam, họ vẫn xem xã hội dân sự là một âm mưu “diễn tiến hoà bình” do các “thế lực thù địch ở nước ngoài” giật dây (9).
Hầu hết những người nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam đều đi đến kết luận giống nhau: Cái gọi là xã hội dân sự hiểu theo nghĩa một khu vực thứ ba, như một thiết chế chính thức, tồn tại một cách độc lập với cả thị trường lẫn nhà nước, được hình thành trên cơ sở sự tự nguyện, chưa thực sự hiện hữu tại Việt Nam.
Chú thích:
1. “Civil Society in Malaysia: An Arena of
Contestations?” in trong cuốn Civil Society in Southeast Asia do Lee
Hock Guan biên tập (2004), Institute of Southeast Asian Studies xuất bản tại
Singapore. (Trong cuốn này có một bài về Việt Nam: “Civil Society Effectiveness
and the Vietnamese State – Despite or Because of the Lack of Autonomy của Russell
Hiang-Khng Heng.)
2. Đăng trên Journal of Comtemporary
Asia số 38, 2008, tr. 244-258.
3. Trong bài “Civil Society in Vietnam,
Social Organisations and Approaches to New Concepts” đăng trên ASIEN số
105 (10/2007), Irene Norlund xem Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là một tổ chức xã
hội dân sự (tr. 74) nên có một con số đầy “lạc quan”: 74% công dân Việt Nam là
thành viên của ít nhất một tổ chức xã hội dân sự (tr. 78).
4. Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (2009), Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, những chặng đường lịch sử, Hà Nội: nxb Lao Động, tr.
371-7.
5. Như trên, tr. 394.
6. Ingrid Lanlau, bài đã dẫn, tr. 250.
7. William Taylor, “Survey Reveals
Increasing Diversity of Civil Society in Vietnam” đăng trên In Asia ngày
31/10/2012. http://asiafoundation.org/in-asia/2012/10/31/survey-reveals-increasing-diversity-of-civil-society-in-vietnam/
8. Ingrid Lanlau (2008), bài đã dẫn, tr.
252. Xem thêm bài “Creating Civil Society? The Emergence of NGOs in Vietnam”
của Michael L. Gray trên Development and Change, số tháng 10, 1999.
9. Xem bài "Xã hội dân sự - một thủ
đoạn của diễn biến hoà bình” của Dương Văn Cừ trên báo Nhân Dân ngày
31/8/2012: http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/chinh-tri/2.670/x-h-i-dan-s-m-t-th-o-n-c-a-di-n-bi-n-hoa-binh-1.365283
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là
blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA
nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
------------------------------------------
CÁC BÀI LIÊN QUAN :
Xã
hội dân sự như một khu vực thứ ba
17-1-2013
Xã
hội dân sự như một phạm trù nhận thức
16-1-2013
Xã
hội dân sự hay Xã hội công dân? 14-1-2013
No comments:
Post a Comment