By
NTZung, on February 4th, 2013
Theo đánh giá của quốc tế, Việt Nam thuộc
vào trong số các nước có độ pháp trị thấp trên thế giới. (Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_law).
Hay như luật sư Ngô Bá Thành (1931–2004,
tên thật là Phạm Thị Thanh Vân, nguyên là Chủ nhiệm ủy ban pháp luật Quốc Hội
Việt Nam các khóa 6, 7, 8, 10) nhận xét: “Ở Việt Nam có một rừng luật nhưng khi
thực hiện lại áp dụng luật rừng”.
Có thể nhận thấy một trong các lý do dẫn
đến “luật rừng” ở Việt Nam, là Hiến pháp yếu về logic, thiếu chặt chẽ, đề ra
những điều khoản không rõ nghĩa, những điều khoản không kèm theo cơ chế nào để
có thể thực thi, và những điều khoản có tính “khẩu hiệu” chứ không phải tính
pháp lý, v.v...
Để làm ví dụ, tôi phân tích dưới đây một số
điều khoản liên quan đến giáo
dục trong dự thảo hiến pháp 01/2013:
Điều 42: Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập.
Điều 42 phía trên rất mơ hồ. Thế nào là
“nghĩa vụ học tập”? Nếu công dân không học, thì là phạm pháp à? Hay đây chỉ là
một khẩu hiệu “vô thưởng vô phạt” kiểu “công dân ơi, hãy học đi”. Nhưng hiến
pháp đâu phải chỗ để hô khẩu hiệu, mà phải là cơ sở pháp luật rõ ràng để dân có
thể biết cái gì là đúng, là sai pháp luật, nếu sai thì sẽ bị xử ra sao. Và thế
nào là “quyền học tập” của công dân? Quyền học cái gì? Ai phải đảm bảo quyền
đấy cho công dân?!
“Quyền học tập” có thể xếp vào quyền lợi xã
hội (vượt trên mức các quyền con người cơ bản nhất), quyền được hưởng một dịch
vụ (dịch vụ giáo dục) vì học ở đây có nghĩa là có người dạy (chứ nếu cần riêng
một điều luật về “ai cũng có quyền tự học” thì cũng vô duyên tương tự như luật
“ai cũng có quyền đi vệ sinh” vậy). Nhưng nếu có người có quyền được hưởng dịch
vụ nào đó theo luật, thì tức là phải có người đảm bảo cung cấp dịch vụ đó theo
luật. Nhưng Điều 42 không nói ai phải có trách nhiệm cung cấp dịch vụ, và như
thế nó trở thành một điều luật không có giá trị pháp lý.
Điều 65 (sửa đổi, bổ sung Điều 35, Điều 37
của Hiến pháp 1992). Phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Điều 65 phía trên cũng chỉ là một khẩu hiệu
chung chung, chứ không thể gọi là một luật: nó không hề nói đến ai, phải làm
cái gì, ra sao. Viết dưới dạng như vậy, nó trở thành một điều thừa của hiến
pháp.
Điều 66 (sửa đổi, bổ sung Điều 35, Điều 36)
1. Phát triển giáo dục nhằm hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân; nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đào tạo người lao động có nghề, năng động,
sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
2. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân, ưu tiên đầu tư và tạo điều kiện thu hút các nguồn đầu tư
khác cho giáo dục; quy định phổ cập giáo dục; thực hiện chính sách học bổng,
học phí hợp lý; ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc
thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác.
3. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập
để phát triển tài năng. Người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học văn hóa và học nghề phù hợp.
Phần 1 của điều 66 cũng không phải là một
luật vì không có chủ ngữ. Ai phát triển? Điều 2 và điều 3 có thể tạm coi là các
điều luật, tuy nó mới chỉ mang tính định hướng chứ chưa có tính ràng buộc pháp
lý. (“Ưu tiên đầu tư” là thế nào? Nhà nước phải đảm bảo những khoản nào trong
giáo dục? Điều này không hề được nói đến trong hiến pháp). Trong điều 3, những
đoạn “xã hội tạo điều kiện” cũng không hề có tính pháp lý. Người ta có thể kiện
nhà nước vì các hành xử sai pháp luật của nhà nước, chứ không ai có thể kiện
“xã hội” cả, vì đấy là khái niệm chung chung không có bất cứ trách nhiệm gì về
mặt pháp lý. Vế “học tập để phát triển tài năng” cũng là thừa, vì nó là một
điều hiển nhiên cũng tương tự như “trẻ em ăn để lớn” vậy. Nếu như ở đây ý nói là
“tài năng, năng khiếu đặc biệt” thì lại thành câu không rõ nghĩa, mà cần phải
viết chẳng hạn thành: nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư về giáo dục cho
những người có tài năng, năng khiếu đặc biệt để phát triển các tài năng, năng
khiếu đó.
Thay vào những điều khoản như trên, cần có
những điều khoản rõ nghĩa và có tính pháp lý ràng buộc hơn. Ví dụ như:
- Nhà nước phải đảm bảo giáo dục đến mức
nào? (Chương trình giáo dục phổ thông chính thức là miễn phí cho 9 năm đầu?).
Phải có sự đảm bảo như vậy của nhà nước, thì “quyền học tập” mới trở thành thực
quyền. Kèm theo quyền đi học cụ thể, mới là trách nhiệm đi học cụ thể. (Việc
học cho đến bậc PTCS là miễn phí và bắt buộc đối với trể em?). Ở nhiều nước
tiên tiến, việc học phổ thông là hoàn toàn miễn phí, thậm chí có nước còn cho
ăn miễn phí ở trường.
Chiểu theo một luật học miễn phí như trên,
việc thu học phí bắt buộc ở tiểu học sẽ là phạm pháp. Nhà trường và giáo viên
chỉ có quyền thu học phí cho các hoạt động học ngoại khóa tình nguyện mà học
sinh không bị bắt buộc tham dự.
- Tư nhân có quyền hạn gì trong việc cung
cấp dịch vụ giáo dục tư (thay thế hoặc bổ sung cho chương trình học ở trường
công)?
- Đại học có quyền tự quản và tự do học
thuật đến mức nào?
- Những mảng nào trong giáo dục phải được
nhà nước ưu tiên đầu tư? v.v. (Hiến pháp không thể bắt tư nhân ưu tiên đầu tư,
mà chỉ có thể bắt nhà nước ưu tiên đầu tư, và có chính sách khuyến khích tư
nhân đầu tư, những mảng nào đó).
Tất nhiên, hiến pháp không phải là nơi viết
toàn bộ các luật về giáo dục – đấy là việc của bộ luật giáo dục – mà chỉ là nơi
ghi một số ít các luật giáo dục cơ bản nhất.
Chỉ xét riêng một vấn đề, là vấn đề về giáo
dục, và xét các điều khoản trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp về vấn đề đó, đã
thấy dự thảo hiến pháp có nhiều chỗ lủng củng, thiếu tính logic, pháp lý. Tình
trạng của dự thảo đối với các vấn đề khác cũng tương tự.
Khi một hiến pháp thiếu tính logic, pháp
lý, khó thực thi, thì nó sẽ có nguy cơ bị biến thành cái người ta gọi là
“façade constitution” (hiến pháp giả hiệu), và đây là một điều rất nguy hiểm.
Lấy thêm một ví dụ khác: Các điều khoản có nói đến Đảng
Cộng Sản trong dự thảo hiến pháp 01/2013. Chỉ có tổng cộng 2 điều, là Điều 4 và
Điều 70.
Điều 4 (sửa đổi, bổ sung Điều 4).
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 45)
Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối
trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia
và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Điều 4.1 giao quyền lãnh đạo toàn đất nước
cho ĐCS, điều 70 có thể hiểu là Đảng nắm quân đội. Nhưng Đảng không chịu sự
kiểm soát thực tế của bất kỳ ai theo hiến pháp. Điều 4.2 có nói ĐCS “chịu sự giám
sát của nhân dân”, nhưng toàn bộ hiến pháp không hề có điều khoản nào về cơ chế
nào cho việc giám sát này. Tương tự như vậy, điều 4.3 nói “tổ chức của Đảng và
đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhưng Hiến pháp
không hề có qui định cụ thể gì về hoạt động của tổ chức Đảng (không có qui định
gì về pháp luật, thì làm gì cũng đúng, cũng không thể phạm pháp).
Như vậy, tuy về mặt danh nghĩa, hiến pháp
có nói 2 câu về quan hệ giữa Đảng với pháp luật và sự giám sát của nhân dân,
nhưng vì hiến pháp giao toàn bộ quyền lãnh đạo cho Đảng và không có bất kỳ cơ
chế pháp luật cụ thể nào để kiểm soát Đảng, nên trên thực tế, lỗ hổng logic này
đã đặt Đảng lên trên và ra ngoài vòng kiểm soát của hiến pháp và pháp luật.
Trên thực tế, Đảng “làm gì cũng đúng”, ai phê phán thì có thể bị kết tội “bêu
xấu chế độ”. Tất nhiên, khi có một quyền lực tối cao nằm trên hiến pháp, thì
hiến pháp bị giảm tính pháp trị mà thay vào đó là “lực lượng tối cao” trị, ở
trường hợp này có nghĩa là Đảng trị.
Bản thân Điều 4.1 phía trên rất dài dòng,
vì thay vì viết “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội” thì thêm vào đoạn mô tả rất dài về các tính chất theo định nghĩa của ĐCS.
Đoạn mô tả đó dài dòng khó hiểu với nhân dân (vì chẳng hạn rất hiếm ai hiểu
thực sự thế nào là chủ nghĩa Mác-Lênin được nói đến ở đây – trong chủ nghĩa
Mác-Lênin “chính thống” làm gì có kinh tế thị trường được nói đến trong hiến
pháp) mà không làm thay đổi bản chất của điều luật 4.1. có thể viết gọn lại.
------------------------------
CÁC BÀI KHÁC :
No comments:
Post a Comment