Đỗ Nam
Hải
10-2-2013
Sài Gòn, ngày 9/2/2013 (chiều 29
Tết).
Kính gửi: Ông Dương Trung Quốc -Tổng
thư ký Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam, hiện là Đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
Địa chỉ: 27 Hàng Đường – Hà Nội.
Tên tôi là: Đỗ Nam Hải, sinh
năm 1959 tại Hà Nội.
Nghề nghiệp: Kỹ sư kinh tế ngân
hàng.
Địa chỉ: 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q.
Phú Nhuận, Sài Gòn.
Nay gửi bức Thư ngỏ này đến ông, đề
cập đến vấn đề sau:
Trong bài báo Cuốn sách nhỏ
về một người vĩ đại, đăng trên tờ Tuổi Trẻ, ngày 4/2/2013 vừa qua, ông
có viết rằng: cuốn sách nhỏ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch của tác giả Trần Dân Tiên đã là một cú hích hướng ông vào nghề
sử học. Đọc xong bài báo, tôi hiểu là ông đã nghĩ (hoặc ít ra là muốn hướng độc
giả nghĩ như vậy), rằng Hồ Chủ tịch và Trần Dân Tiên là 2 người khác nhau. Thế
nhưng, có những ý kiến khác lại cho rằng: 2 ông trên thực ra chỉ là 1 người, và
người đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Một vấn đề khác mà tôi cũng muốn đề
cập là: trong tất cả các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các sách giáo
khoa xuất bản ở Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua đều khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ
Chí Minh và tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù là 1 người. Thế nhưng, có những ý
kiến khác lại cho rằng đó là 2 người khác hẳn nhau: một người Việt Nam và một
người Trung Hoa! Như vậy là rất khó hiểu cho người đọc: vấn đề trước tưởng là 2
mà biến thành 1, còn vấn đề sau ngỡ là 1 lại hóa thành 2!
Năm 2001, khi đang sinh sống tại
Australia, tôi có bài báo Viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, và năm
2008 khi đã về Việt Nam, tôi có viết bài Một vài suy nghĩ sau khi đọc lại
tập thơ Nhật Ký Trong Tù. Trong đó có đề cập đến hai vấn đề khó hiểu
trên, nay xin gửi đến ông đọc tham khảo.
Tôi không phải là nhà sử học, hơn
nữa việc đi lại để tìm hiểu cặn kẽ những vấn đề trên đối với tôi hiện gặp rất
nhiều khó khăn. Bởi lẽ, công an Việt Nam (PA 21 – Công an Tp. Hồ Chí Minh) luôn
bám sát tôi như hình với bóng trong suốt hơn 8 năm qua (từ tháng 8/2004 đến
nay), kể cả trong những ngày xuân này.
Vì vậy, tôi viết bức Thư ngỏ này
gửi đến ông, một người có lợi thế nghiên cứu sử học và được quyền đi lại tự do
hơn hẳn tôi, hãy giúp tôi và nhiều người khác hiểu rõ 2 vấn đề trên. Rất mong
nhận được sự quan tâm của ông. Nhân dịp năm mới 2013, xin kính chúc ông và gia
đình luôn được mạnh khỏe và an lành. Trân trọng kính chào!
Đỗ Nam Hải
__________________
Phụ lục:
1) Cuốn sách nhỏ về một người vĩ
đại
TT
- Chuyên mục “Quyển sách thay đổi cuộc đời” kỳ này giới thiệu bài viết của nhà
sử học Dương Trung Quốc.
Dương Trung Quốc
- Tôi có một lý lịch nghề nghiệp rất đơn giản: sinh ra, lớn lên, đi học, thi
học sinh giỏi môn sử phổ thông rồi tốt nghiệp khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội,
về Viện Sử học công tác cho đến khi về hưu vẫn tiếp tục hoạt động trong một hội
nghề nghiệp của giới sử học và làm một tờ báo của Hội Sử. Có hơn một thập kỷ
làm đại biểu Quốc hội thì ngẫm kỹ điều mình thể hiện trên diễn trường ấy cũng
luôn là những vấn đề có liên quan đến lịch sử, lấy chuyện xưa vận vào chuyện
nay, tựa như người nhắc vở vậy.
Với người làm nghề sử thì việc đọc
sách là chuyện đương nhiên, như nông dân cày cấy, thợ may cắt vải nên khó chọn
được một cuốn sách nào lại đủ sức “làm thay đổi cuộc đời” của mình. Nhưng ngẫm
nghĩ kỹ có thể nhắc tới một cuốn sách dường như nó đã “bẻ ghi” khiến đời mình
nghiêng về cái ngả đường mà đến thời điểm đã U-70 rồi thì có thể nói được rằng
sẽ theo nghiệp nghề ấy đến lúc xuống... mồ.
Cú hích vào nghề
Tôi đến với nghề sử rất ngẫu nhiên,
không hề có một hứng thú hay năng khiếu gì đặc biệt đối với cái môn dễ là khổ
sai trí nhớ ấy. Đến lớp 10 niên khóa 1963-1964, Hà Nội tổ chức thi học sinh
giỏi môn lịch sử. Chẳng biết vì sao cô giáo dạy sử lại chọn tôi với câu động
viên: “Cô thấy em đi thi được đấy!”. Có lẽ vì nể trọng cô giáo mà tôi
nhận lời.
Chuẩn bị cho cuộc thi, cô giáo
hướng dẫn: ngoài sách giáo khoa, nên tìm đến một người nào đó am hiểu lĩnh vực
này để hỏi han thêm. Lớp tôi có một anh bạn có bố làm ở Viện Sử học. Tôi đến
xin được ông chỉ giáo. Ông đưa cho tôi mấy số tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử bảo
mang về nhà đọc thử một vài bài, rồi hẹn gặp lại để ông hướng dẫn. Trước lúc về
tôi thấy trên bàn của ông có một cuốn sách không dày. Tôi vừa động tay vào thì
nhà sử học đầu tiên mà tôi được gặp trong đời bảo: “Cuốn ấy không phải là sử
đâu cháu ơi. À, nhưng đọc được lắm...”.
Đó là cuốn Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên. Về nhà,
đọc các bài tạp chí thấy dài lằng nhằng càng đọc càng khó hiểu nên tôi chuyển
sang cuốn sách và đọc một mạch từ trang đầu đến trang cuối. Hồi đó Bác Hồ còn
sống, một đôi lần tôi được gặp, sách vở viết về Bác chưa nhiều như bây giờ
nhưng hình tượng của con người còn sống ấy đã là thiêng liêng lắm. Cuốn sách ấy
không thể nói là đã “làm thay đổi cuộc đời tôi”, song đã tạo một cái hích nhẹ
và hướng tôi bước vào ngả đường nghề nghiệp mà vào thời điểm đó tôi chưa bao
giờ nghĩ tới. Cuốn sách “không phải là sử” ấy thật sự gây ấn tượng với tôi.
Cuốn Những mẩu chuyện về cuộc
đời hoạt động của Hồ Chủ tịch chắc nhiều người đã đọc vì từ khi được
xuất bản lần đầu vào cuối thập kỷ 1940 đến nay đã qua gần bảy thập kỷ, đã được
nhiều nhà xuất bản tái bản rất nhiều lần. Thông qua lời kể của một nhà
báo có bút danh Trần Dân Tiên, người đã được gặp Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào những ngày đầu nước nhà độc lập (1945), cuộc đời của nhà cách
mạng và là người đứng đầu nhà nước Việt Nam độc lập được kể lại qua “những mẩu
chuyện” như tên gọi của sách. Mục đích sách ra đời vào thời điểm đó dường như
chỉ để trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là ai?”, kể cả với những người nước ngoài.
Sau này, khi đã thâm niên trong
nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội đọc và gặp nhiều người nước ngoài, có người
thuần túy là nhà nghiên cứu, có người là nhân chứng lịch sử, cũng có người là
cả hai. Tôi đã nghe và đọc được rất nhiều cách tiếp cận, cách đánh giá khác
nhau về cuốn sách này và nhân vật của sách...
Đam mê tìm kiếm sự thật
Hồi Liên Xô “mới đổ”, tôi là một
trong những người Việt Nam sớm “mò đến” Lưu trữ cũ của Quốc tế Cộng sản ở thủ
đô nước Nga để khai thác tài liệu về Hồ Chí Minh. Tôi được biết cách đó không
lâu có một phụ nữ quốc tịch Mỹ cũng đã đến đây và cũng có mối quan tâm đến nhân
vật lịch sử này. Rồi các đồng nghiệp Nga cho biết người phụ nữ ấy đã “lần mò”
đến tận Leningrad để tìm kiếm những chi tiết liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí
Minh trong thời gian ở Liên Xô (cũ). Người phụ nữ ấy tên Sophie Quinn
Judge.
Bẵng đi một thời gian tôi gặp bà ở
Aix en Provence, nơi có một trung tâm lưu trữ quan trọng của Bộ Thuộc địa Pháp,
ở đó có nhiều tư liệu liên quan đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nhưng nếu
người ta chỉ quan tâm đến học thuyết hay sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh
thì bà lại muốn tìm hiểu đời sống riêng tư, một phần không thể thiếu được nếu
muốn tiếp cận một chính khách cũng như một nghệ sĩ. Theo bà, thật đáng tiếc
chưa mấy ai quan tâm đến điều đó vì thế bà sẽ cố gắng lấp chỗ trống này.
Hồi đó bà mới chỉ đưa ra nhận xét
bước đầu là càng nghiên cứu càng thấy nhân vật này có nhiều điều hấp dẫn. Vài
năm sau Sophie Quinn Judge cho xuất bản ở Singapore một luận văn nghiên cứu về
Hồ Chí Minh trong quãng thời gian ở châu Âu 1919-1940. Bà có gặp để trao đổi và
gửi bản thảo cho tôi đọc trước. Cuốn sách của bà có thể có sự đánh giá khác
nhau từ những người có quan niệm khác nhau, nhưng giữa những dòng chữ có thể
thấy được thiện chí của một người muốn thỏa mãn đi tìm sự thật, công việc của một
người làm sử.
Nhân dịp 110 năm sinh nhật Chủ tịch
Hồ Chí Minh, có một nhóm làm phim đến phỏng vấn Sophie, bà vẫn nhắc lại cái
điều bà từng nói với tôi khi mới bắt tay vào viết sách: “Lúc đầu tôi đã nghĩ
rằng Hồ Chí Minh không tuyệt vời và thú vị như hình ảnh mọi người vẫn tuyên
truyền, nhưng hóa ra ông ấy thật sự thú vị... Con người thật của Hồ Chí Minh
rất thú vị”.
Cuốn sách nhỏ mà tôi nhắc đến trong
bài viết này thật sự đã “dẫn tôi vào đời” nghề nghiệp để hướng tới cái khao
khát muốn tìm ra những gương mặt thật đã tạo nên một lịch sử thật. Thỏa mãn cái
khao khát ấy thật là khó, có khi cả đời nghề chưa làm được là bao nhưng lại vô
cùng hấp dẫn. Nghiệm lại đời mình thấy cái làm được trong nghề không nhiều
nhưng niềm say mê khiến mình đã theo nghiệp nghề này trọn đời lại làm mình thỏa
mãn.
Xuân 2013
*
2) Viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phương Nam – Australia, tháng 7/2001.
Bao nhiêu sao sáng bấy nhiêu anh
hùng vì dân mà Bác Hồ ngôi sao sáng soi vô ngần. Cuộc đời của Bác sáng ngời
gương người cộng sản, nguyện làm theo lời Bác dạy khuyên. Quê hương yêu dấu Bắc
- Nam chung một dòng máu, đoàn kết bên nhau đàn cháu ngoan của Bác Hồ. Vì ngày
mai bao tươi sáng, nhớ lời thề đinh ninh. Nguyện xứng cháu của Bác Hồ Chí Minh.
Có thể nói rằng ở Việt Nam không ai
lại không biết đến CT Hồ Chí Minh. Các thế hệ thanh, thiếu niên, nhi đồng lại
càng được giáo dục kỹ lưỡng về ông. Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi
lúc mọi nơi, dù ông mất đã hơn 30 năm nay. Trên các phương tiện thông tin đại
chúng, trong sách giáo khoa các cấp cũng luôn nói tới ông từ chuyện lớn đến
chuyện nhỏ. Tất cả đều nhằm mục đích làm cho mọi người hiểu rằng: không bao giờ
được quên công lao to lớn của ông đối với dân tộc và kêu gọi tất cả hãy
"Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại."
Tài Liệu Giáo Dục Công Dân lớp 7,
Nhà Xuất Bản Giáo Dục năm 1997, trang 53 có một bài đọc thêm nhan đề: Tinh Hoa
Của Dân Tộc Việt Nam Góp Phần Vào Tinh Hoa Thế Giới, nội dung khẳng định một sự
kiện là: Vào năm 1990, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch,
Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học Và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO (United
Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), đã ra một nghị
quyết công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới. Trong đó có đoạn: “ ...
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân
tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ.” (trích nghị quyết UNESCO, sách đã dẫn.)
Trong bài Chủ Tịch Hồ Chí Minh,
Danh Nhân Văn Hóa Của Nhân Loại, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên, nguyên
chủ tịch ủy ban UNESCO Việt Nam , viết vào tháng 5 năm 2000 vừa qua cũng tiếp
tục khẳng định như vậy. (Xem: Danh Nhân Văn Hóa - Nguyễn Dy Niên).
Dù có ý đọc kỹ nhưng tôi không thấy
cả hai bài viết trên ghi cụ thể đấy là nghị quyết số mấy? Ký ngày nào và ai đã
ký nó? Như thông thường đối với việc trích dẫn một nghị quyết quan trọng như
thế. Tuy nhiên ở nước ngoài, vì có điều kiện được tiếp cận với những nguồn tài liệu
khác thì tôi lại thấy những bài viết quả quyết rằng: không hề có một nghị quyết
nào như vậy cả. Ðiều đó có nghĩa là CT Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO
công nhận là danh nhân văn hóa thế giới, mà ông mới chỉ có tên trong danh sách
được đề cử, rồi dừng lại ở đó thôi.
Nhận thấy đây là một vấn đề lớn cần
làm rõ, vì dù ai có chấp nhận hay không thì trong thực tế ông cũng đã là nhân
vật lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 vừa qua. Còn cái lịch sử ấy đã và
sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào? Tốt hay xấu? v.v… thì đó không phải là mục
đích chính mà tôi muốn đề cập đến trong bài viết này.
Ngoài ra còn là vấn đề bức xúc hơn,
nó liên quan đến sự nghiệp trồng người của dân tộc: những học sinh lớp 7 kia
rồi sẽ lớn lên, và với thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay thì việc các em
được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác là rất dễ dàng. Khi ấy liệu các em
còn biết tin vào đâu? Nguồn nào đúng, còn nguồn nào sai? Nếu chúng tự phát hiện
ra sự thật lại ngược hẳn với những gì đã được dạy dỗ từ nhỏ đến lớn thì sao? Từ
đó rất có thể chúng sẽ oán trách các thế hệ cha anh đã lừa dối chúng, rồi cứ
theo cái vết mòn ấy, biết đâu chúng lại đi lừa dối tiếp những thế hệ sau thì
hậu quả sẽ tai hại biết nhường nào? Cả một dân tộc cứ đi lừa dối lẫn nhau mãi
như vậy thì dân tộc ấy sẽ đi về đâu? v.v…
Chính vì những lý do trên mà ở phần
dưới đây, tôi xin được nêu ra một số câu hỏi liên quan đến thân thế và sự
nghiệp của CT Hồ Chí Minh mà đến nay vẫn chưa được làm rõ. Tôi rất mong các nhà
nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước, vốn quan tâm đến lịch sử Việt Nam hiện
đại, nhất là đến thế hệ trẻ Việt Nam tương lai hãy giải đáp giúp. Tôi nghĩ rằng
đây không chỉ đơn thuần là mối quan tâm của riêng tôi - một độc giả, mà còn là
của hàng chục triệu phụ huynh học sinh đang có con cháu mình đi học ở Việt Nam
. Những câu hỏi của tôi là:
1- Có phải trước khi xuống tầu buôn
Pháp làm phụ bếp vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 thì chàng trai 21 tuổi Nguyễn Tất
Thành, với tên mới là Văn Ba đã có sẵn ý định ra đi tìm đường cứu nước hay
chưa? Nếu anh Ba đã có sẵn mục đích rõ ràng như sau này anh kể lại: “…Tôi
muốn được đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta...” thì thật đáng quý biết bao.
Tuy nhiên, nó lại mâu thuẫn với một sự kiện sau do những tài liệu ở nước ngoài
viết rằng: Ngày 15.9.1911, khi vừa đặt chân đến cảng Mác-Xây (Marseille) -
Pháp, tức là chỉ hơn 3 tháng sau khi rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn thì anh Thành
đã vội viết đơn xin được vào học nội trú Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale).
Nhưng đã bị nhà trường từ chối với lý do: Ðơn không được xét vì anh là đối
tượng di chuyển tự túc đến Pháp chứ không phải được tuyển chọn từ xứ Ðông Dương
sang, theo như quyết định ban hành ngày 30.4.1910 của Bộ Thuộc Ðịa Pháp. (lá
đơn này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm được trong văn khố Pháp ngày 2.2.1983, có
sao chụp lại cẩn thận. Cũng cần lưu ý rằng: theo những tài liệu trong nước thì
Trường Thuộc Ðịa là nơi chuyên đào tạo những tên Việt gian phản động, tay sai
của thực dân Pháp lúc bấy giờ.)
Giả sử câu chuyện trên là có thật
thì sẽ có thêm một câu hỏi hệ quả là: Nếu năm 1911 Trường Thuộc Ðịa chọn anh
Thành, thì 9 năm sau anh có còn chọn con đường của Lênin cho cách mạng Việt Nam
nữa hay thôi? (theo suy luận chủ quan của tôi thì có lẽ là anh Thành sẽ...
thôi!)
2- Phải chăng lý do chính rời nước
ra đi của anh Thành là bởi trước đó một năm, trong gia đình anh có một biến
động lớn đã diễn ra? Ðó là: năm 1910, cha anh là ông Nguyễn Sinh Huy, tức cụ
phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929), tri huyện Bình Khê - Bình Ðịnh, trong
một cơn say rượu đã sai người đánh chết anh nông dân tên là Tạ Ðức Quang bằng
roi và gậy. Sở mật thám Pháp sau khi điều tra xong đã kết ông vào tội ngộ sát
khi đang say rượu. Hội Ðồng Nhiếp Chánh tại Huế sau đó đã ra quyết định kỷ luật
ông: hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời bấy giờ, bị triệu hồi về Huế, rồi
cuối cùng là bị sa thải luôn. Bà Thanh con gái ông cũng kể : ông là người
nghiện rượu nặng, hồi nhỏ bà vẫn thường bị bố đánh rất đau bằng roi, có khi còn
quẳng cả roi đi để đánh bằng tay. Một số tài liệu lịch sử trong nước thì viết
rằng: "Cụ Sắc nhà nghèo, ham học, thông minh, thi đậu phó bảng, “bị ép”
ra làm quan. Có lần cụ nói: " Quan trường là chốn nô lệ trong những người
nô lệ, lại càng nô lệ hơn.". Cụ thường làm những việc trái ý bọn quan lại,
nên bị cách chức."
Như vậy là giữa hai nguồn tài liệu
đã có những điểm mâu thuẫn lớn cần làm rõ, nhất là lý do ra khỏi chốn quan
trường của ông: phải chăng ông ra khỏi là vì như ông nói là không muốn bị
"nô lệ hơn" trong số những người nô lệ? Hay là bởi rượu đã đưa ông ra
khỏi chốn ấy và chính vì bị ra khỏi chốn ấy nên ông lại càng uống nó nhiều hơn?
Cũng qua những sách báo ở trong
nước kể lại thì: khi từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội sau chiến thắng Ðiện
Biên Phủ (tháng 10.1954), ông đi thăm rất nhiều vùng quê trên miền Bắc, đi ra
nước ngoài,... Nhưng riêng quê ông thì mãi tới tháng 6.1957, tức là gần 3 năm
sau ông mới về thăm lần đầu (sau đó ông có về thêm một lần nữa, vào năm 1961).
Có cái gì đó không ổn trong tinh thần vì nước quên... quê của ông không? Hay
ông ngại nhân dân, cán bộ và chiến sỹ biết được tấn bi kịch trên của gia đình
mình?
3- Ai là người đã viết cuốn Những
Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch vào mùa xuân năm 1948? Cuốn
sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên. Năm 1985, giáo sư Hà Minh Ðức đã xuất
bản cuốn Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trong đó có đoạn: “Ðáp
lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới. Hồ Chủ Tịch với
bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của
Hồ Chủ Tịch,...”. (Hà Minh Ðức, sách đã dẫn, Tr 132, NXB Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội, 1985).
Như vậy có nghĩa là tác giả Trần
Dân Tiên và Hồ Chủ Tịch thực ra chỉ là một người. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn,
người biết rất rõ ông từ những năm 1930s, khi cả hai cùng học tập và làm việc ở
Liên Xô đã viết lời tựa cho cuốn sách cũng đã khẳng định như vậy. Tôi tin là
hai giáo sư ấy viết đúng, vì 2 lẽ: thứ nhất, đó là việc rất quan trọng mà nếu
nói sai thì chính hai giáo sư có thể sẽ bị mang họa, chắc chắn là hai ông đã
cân nhắc rất kỹ trước đó. Thứ hai, cứ theo tư duy lôgic mà suy luận: nếu ông
Trần Dân Tiên và cụ Hồ là hai người thì nay ông Trần Dân Tiên kia đâu? Còn sống
hay đã chết? Nếu sống thì bao nhiêu tuổi rồi? Vợ, con ra sao? Nếu chết thì chết
vào năm nào? Hiện chôn ở đâu?...
Còn một khi lại chỉ là một người
thì xét theo khía cạnh nào cũng đều không ổn. Chúng ta hãy nghe một vài đoạn
Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về... Hồ Chủ Tịch như sau: “ ... Bác Hồ của
chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho ai nghe về hoạt động của
mình; rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc; Bác còn vĩ đại
hơn Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa.”
và: “ ... Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tinh khiêm tốn nhường
ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe
bình sinh của Người được?...”. (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn). Cũng cần
lưu ý rằng vào năm 1948 thì vị "cha già của dân tộc" ấy mới có 58
tuổi! (1890 – 1948).
Trong thực tế nhân loại cũng đã có
những người dùng quyền lực hay tiền bạc để bắt người khác ca ngợi mình. Nhưng
nếu Hồ Chủ Tịch lại tự mình đứng ra "dầy công vun đắp" nên điều đó
thì quả là chuyện xưa nay hiếm! Tôi cũng không rõ là những người đang cố gắng
"giữ gìn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh" có coi đây như là một trong
những “yếu tố cấu thành” nên tư tưởng của ông hay không? Và giả sử ở dưới cõi
âm kia, nếu ông gặp các vị cách mạng đàn anh khác như Lê Nin, Stalin, Mao Trạch
Ðông, v.v… thì không nói. Nhưng nếu rủi thay, ông lại gặp các cụ Trần Hưng Ðạo,
Lê Lợi thì biết "ăn, nói" thế nào cho phải với những vị anh hùng chân
chính của dân tộc ấy đây?
Một điều nữa đáng lo ngại hơn:
trong cuốn Dàn Bài Tập Làm Văn lớp 7, (NXB Giáo Dục 1997, Tr 39). Tức là đã 12
năm, sau khi tác phẩm của giáo sư Hà Minh Ðức nói trên được xuất bản, thì các
tác giả biên soạn cuốn sách giáo khoa kia vẫn tiếp tục mập mờ mà không chịu
viết thẳng ra đấy là hai hay chỉ có một người. Nếu cứ cung cấp thông tin và bắt
các thầy cô giáo dạy học sinh theo kiểu này, thì đến ngay như người lớn cũng
còn bị nhiễu loạn chứ nói gì đến trẻ con? Hồi đất nước còn chiến tranh, tôi đã
được một sỹ quan QÐND Việt Nam cho xem cuốn nhật ký của anh, trong đó có đoạn:
“ Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Hôm nay Ðài Tiếng Nói Việt Nam báo
tin Bác Hồ bị bệnh nặng. Bác ơi! Chúng cháu hiểu là chúng cháu thật có lỗi với
Bác, vì đất nước đến lúc này vẫn còn bị nỗi đau chia cắt. Ðơn vị của chúng cháu
đã được vinh dự nhận lệnh vào miền Nam chiến đấu, chỉ vài hôm nữa thôi là lên
đường. Cháu xin hứa với Bác rằng: dù phải trải qua gian khổ, hy sinh đến đâu
thì chúng cháu cũng quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ mà đảng và quân đội giao
phó; góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, để sớm được đón Bác vào
thăm đồng chí, đồng bào trong ấy. ”
Cũng cùng một tinh thần đó, từ miền
Nam , nhà thơ Lê Anh Xuân viết ra:
Gửi miền Bắc lòng miền Nam chung
thủy
Ðang xông lên chống Mỹ tuyến đầu.
Nghĩa là tất cả đều hướng lên Ba
Ðình tràn đầy một niềm tin trong sáng, một niềm kính trọng vô biên. Bởi vì ở
nơi ấy "có Trung Ương Ðảng, có bác Hồ" luôn chỉ lối dẫn đường cho
cách mạng Việt Nam tiến lên.
Theo tôi, nếu trong một cuộc chiến
tranh, giả sử tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau, thì bên nào có thêm yếu
tố tin tưởng và kính yêu lãnh tụ như trên là sẽ rất có lợi thế để giành chiến
thắng. Thế nhưng, nếu vì muốn trở thành một “ngôi sao sáng vô ngần” mà chính vị
lãnh tụ lại cho ra đời một sản phẩm kiểu như Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng
Của Hồ Chủ Tịch thì lại là điều không thể chấp nhận được. Bởi vì đó thực chất
là quan điểm đạt mục đích bằng mọi cách, kể cả những cách rất thiếu tử tế: chủ
động đi hủy hoại những giá trị văn hóa của nhân loại nói chung và dân tộc nói
riêng, mà hậu quả để lại sẽ rất nặng nề cho hậu thế. Bằng cách đó ở một giai
đoạn nhất định, có thể ông cũng tự đưa được uy tín của mình lên vị trí rất cao
trong lòng một bộ phận dân tộc. Xong nếu xét về lâu về dài, khi phần lớn đã
nhận ra sự thật thì hình ảnh: "Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con
đường của Bác, nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người,..." sẽ trở
nên trớ trêu, phũ phàng và thật đáng xấu hổ với bạn bè thế giới.
Tôi cũng được biết một câu chuyện
sau: Gia đình ấy có 2 anh em, người anh đi bộ đội, còn người em gái ở lại nhà
và lấy chồng. Năm 1954 khi người anh từ chiến khu trở về thì em gái mình đã
theo chồng di cư vào Nam. Sau gần 30 năm xa cách, hai anh em mới được gặp lại
nhau, khi người em ra Bắc bốc mộ cho chồng - ông bị chết trong thời gian học
tập cải tạo ở ngoài ấy. Cô em nói trong nước mắt giận hờn, đại ý: “Tại anh
và những người cộng sản như anh nên bây giờ em gái anh khổ, các cháu của anh
phải mồ côi cha.”. Xúc động không kém, người anh nói: “Thôi em ạ, đằng
nào thì mọi việc cũng đã lỡ rồi. Em cứ nghĩ như thế này: nếu một người em không
hề tin yêu, kính trọng mà làm em đau khổ thì đấy chỉ là một nỗi khổ đau. Nhưng
nếu đấy lại là người em hằng kính trọng, tin yêu bao năm trời, kể cả sẵn sàng
đem cuộc đời của mình ra để hy sinh, cống hiến mà nay em lại phát hiện ra rằng
thực chất sự tin yêu, kính trọng ấy của mình lại bắt nguồn từ sự giả dối của
người kia, thì lúc ấy nỗi đau khổ trong em sẽ phải nhân lên gấp 5, gấp 10. Ðấy
chính là tâm trạng của anh lúc này, em ạ.”.
Trên đất nước Việt Nam trong hơn
nửa thế kỷ qua đã có bao nhiêu gia đình phải lâm vào hoàn cảnh tương tự như
vậy?
4- Một vài điểm khác cần xác minh:
Trong số những người Việt Nam hoạt
động ở Paris vào những năm 1910s -1920s là chỉ có duy nhất 1 ông Nguyễn Ái Quốc
hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc? Vai trò của chàng trai Nguyễn Ái Quốc -
Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động như: thành lập Hội Người Việt Nam Yêu
Nước, soạn thảo Bản Yêu Sách 8 Ðiểm Gửi Hội Nghị Véc - Xây năm 1919, ra báo
Người Cùng Khổ năm 1922, viết Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp năm 1925, v.v…là tới
đâu? Liệu có đúng như các phương tiện thông tin đại chúng trong nước hoặc chính
CT Hồ Chí Minh đã kể lại hay không? Bởi vì nếu theo các tài liệu “ngoài luồng”
thì :
a) Hội Người Việt Nam Yêu Nước đã
được thành lập tại Pháp từ năm 1914, mà tiền thân của nó là Hội Ðồng Bào Thân
Ái còn có trước đó nữa. Ðấy là do công lao của những ông Nguyễn Ái Quốc khác,
chứ anh Thành lúc ấy lại không có mặt ở Pháp, mà là đang mưu sinh ở Anh. (anh
Thành ở Anh từ cuối năm 1913 đến 1917. Cuối năm 1917 mới rời Anh để sang Pháp
và ở đấy đến năm 1923 thì sang Liên Xô.)
b) Bản Yêu Sách 8 Ðiểm gửi hội nghị
Véc-Xây là có rất nhiều ý của cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) gửi khâm sứ Trung
kỳ, gửi toàn quyền Ðông Dương và gửi chính phủ Pháp. Như vậy có phải như CT Hồ
Chí Minh đã kể: “...Ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra, nhưng lại do
luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng
Pháp...” (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn), hay những ý kiến ấy phải là của cụ
Phan Chu Trinh mới đúng? Vì cụ Phan đã có mặt và hoạt động ở Paris liên tục
trước đó, cụ cũng là sáng lập viên của Hội Ðồng Bào Thân Ái. (cụ Phan thi đậu
phó bảng năm 1901, cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh anh Thành.)
c) Báo Người Cùng Khổ (Le Paria) là
do những “ông Tây” (người Pháp) lập ra, chứ đâu phải của một “ông ta” nào như
sự xác nhận sau: “...Ban biên tập báo Người Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc làm
chủ nhiệm, kiêm chủ bút, giao cho Nguyễn Thế Truyền là một Việt kiều được anh
Nguyễn giới thiệu vào Hội Hiệp Thuộc.” (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn).
Bây giờ giả sử đúng là có 1 ông
Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút tờ báo kia đi, nhưng chính xác là
ông Nguyễn Ái Quốc nào? Vì ở Paris lúc ấy có tới 5 ông Nguyễn Ái Quốc, còn gọi
là nhóm Ngũ Long gồm các ông: Phan Chu Trinh, sang Pháp năm 1911/phó bảng. Phan
Văn Trường/1908/luật sư. Nguyễn Thế Truyền/1910/cử nhân. Nguyễn An
Ninh/1917/năm thứ 2 trường luật. Nguyễn Tất Thành/1917/tiểu học, và ai ở trong
nhóm viết bài cũng ký tên là Nguyễn Ái Quốc.
Hơn nữa, chúng ta cũng cần tìm hiểu
thêm cả việc ai đã giới thiệu ai? Vì anh Thành mới chân ướt chân ráo đến Pháp
thì nào đã quen biết ai mà giới thiệu cho ông Nguyễn Thế Truyền vào Hội Hiệp
Thuộc? (ông Truyền sang Pháp từ năm 1910, có 2 bằng cử nhân văn chương và cử
nhân hóa học, có vợ người nước ngòai.)
d) Cũng theo Những Mẩu Chuyện Về
Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch thì: “...Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách
duy nhất là quyển Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp.” Thế nhưng, với điều kiện
thông tin lúc đó thì theo tôi chính quyển này mới là quyển ông ít có cơ hội
tham gia nhất. Bởi vì cả tài liệu trong và ngoài nước đều xác nhận rằng: cuốn
sách được xuất bản lần đầu tại Pháp vào năm 1925, nhưng lúc ấy thì ông Nguyễn
không có mặt ở Pháp mà đang hoạt động ở Trung Quốc! (ông ở Trung Quốc từ tháng
11.1924. Tháng 5.1927 mới rời khỏi đấy để sang lại Liên Xô).
Hơn nữa, cứ giả sử các tài liệu đều
viết sai về năm xuất bản cuốn sách trên thì chúng ta cũng cần lưu ý là: chính
anh Thành cũng đã phải công nhận rằng anh là người có bút lực yếu ở trong nhóm,
nếu như không muốn nói là yếu nhất. Vì anh Thành chỉ mới tốt nghiệp trường tiểu
học Pháp - Việt Ðông Ba, Huế niên khoá 1906-1907. Tháng 9.1907 anh vào học
trường Quốc Học Huế, nhưng chưa đầy 1 năm sau, tháng 5.1908 thì đã bị đuổi khỏi
đấy rồi. Tức là tấm bằng Thành Chung đối với anh cũng vẫn còn rất xa vời. (http://www.cpv.org.vn/hochiminh/tieusu/thoinienthieu/index.htm).
Nói tóm lại, những điểm còn chưa rõ
ràng trong thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh là còn rất nhiều. Một lần
nữa tôi rất mong các nhà nghiên cứu, các sử gia ở cả trong và ngoài nước hãy vì
tính trung thực, khách quan của lịch sử và nhất là vì thế hệ trẻ Việt Nam tương
lai, hãy xác minh cho được chúng càng sớm càng tốt.
Viết về CT Hồ Chí Minh, lại lật
ngược những vấn đề khá phức tạp và tế nhị lên như thế này, tôi hiểu rằng sẽ làm
cho nhiều người vốn tôn kính ông đau lòng. Nhưng theo tôi, thà làm như vậy một
lần cho rõ còn hơn là cứ dễ dãi với nhau để rồi tự làm khổ nhau và làm khổ mãi
con cháu chúng ta sau này.
5- Một ý kiến đề nghị:
Như ở đầu bài đã nêu, từ 11 năm qua
đã có rất nhiều bài viết với hai xu hướng ngược nhau: thứ nhất, khẳng định rằng
CT Hồ Chí Minh đã được UNESCO chính thức công nhận là danh nhân văn hóa thế
giới. Thứ hai là phủ nhận nó. Nay tôi xin có một ý kiến đề nghị: dù ai thuộc xu
hướng nào cũng được, nhưng nếu đã có tấm lòng quan tâm, mong rằng hãy cùng nỗ
lực giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ðối tượng tiếp cận chính là UNESCO, đây là
vị trọng tài khách quan, vô tư và hữu hiệu hơn cả. Sẽ có hai khả năng xảy ra:
a) Nếu CT Hồ Chí Minh đã thực sự
được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới thì những cơ quan nào đã
đưa tin sai lạc trước đó cần ra một bản tin đính chính lại. Ðó cũng là hành
động thể hiện sự tôn trọng các độc giả, thính giả của mình.
b) Nếu UNESCO chưa hề có một quyết
định như giả thiết nêu trên, thì cá nhân hay tổ chức nào có điều kiện tiếp cận
được với tổ chức ấy, cần làm sao có được một văn bản phủ nhận chính thức của
họ. Dù chỉ là vài dòng thôi, nhưng nó sẽ có tác dụng thuyết phục rất lớn.
Ðây cũng là trách nhiệm của mỗi
người nhằm giúp UNESCO. Nó cũng là quyền lợi của UNESCO cần phải tự bảo vệ
mình, khi có ai hoặc quốc gia nào lợi dụng uy tín của họ để làm những việc
khuất tất. Tôi cũng rất mong rằng nếu trường hợp là b) thì những nhà biên soạn
sách giáo khoa ở Việt Nam cần rà soát lại toàn bộ những điểm liên quan và điều
chỉnh lại chúng cho đúng sự thật.
6- Một ý kiến ủng hộ:
Trong bức thư ngỏ viết vào tháng 5.2001
vừa qua của 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân, gửi tân tổng bí thư
ÐCS Việt Nam Nông Ðức Mạnh có một ý kiến đề nghị là: hãy hỏa táng thi hài của
Hồ Chủ Tịch. Bức thư giải thích rằng: những người lãnh đạo đảng và nhà nước vào
thời điểm CT Hồ Chí Minh qua đời đã vi phạm ý nguyện ghi trong di chúc của
người quá cố. Trong đó ông đã viết: "...Tôi yêu cầu thi hài tôi được
đốt đi, tức là hỏa táng. Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến,
và như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng.
Khi ta có nhiều điện thì điện táng càng tốt hơn." Và nay thì những
người lãnh đạo mới của ÐCS VN cần phải sửa lại sai lầm ấy. Nếu cần thì tổ chức
một cuộc Trưng Cầu Dân Ý về vấn đề này. (http://www.thongluan.org/VN2/viet_frame.htm)
Hai tác giả cũng phân tích thêm
rằng: hình thức ướp xác, tức chôn nổi là hoàn toàn không phù hợp với phong tục
tập quán của người Việt Nam, vốn quen với hai hình thức phổ biến là địa táng hoặc
hỏa táng. Rồi cảnh báo là nếu không nghiêm chỉnh tuân theo di chúc của người đã
khuất, thì gia đình, dòng họ và đất nước luôn bị “sái”, không ngóc đầu lên
được. Ngoài ra còn là chuyện lãng phí tiền bạc: để duy trì hệ thống lăng CT Hồ
Chí Minh thì hàng năm phải tốn kém 100 tỷ đồng VN. Dù đấy là tiền thuế đóng góp
của nhân dân hôm nay hay là đi vay mượn của nước ngoài, thì sau này con cháu
chúng ta cũng phải nai lưng ra trả nợ.
Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến trên và
tin rằng nguyện vọng của đa số nhân dân Việt Nam hôm nay cũng là như vậy. Chúng
ta chỉ cần thử làm một bài toán nhỏ: Ðể xoá đói giảm nghèo cho một hộ gia đình
nông dân, theo 2 tác giả là cần 5 triệu đồng VN tiền vốn. Giả thiết mỗi hộ có 4
người, như vậy tổng chi phí cho công trình ấy trong suốt 26 năm qua là 2600 tỷ
đồng VN (không tính chi phí xây lăng) là một số tiền rất lớn, đủ để giúp hơn 2
triệu người Việt Nam thoát khỏi cảnh đói nghèo. Còn nếu mỗi hộ cần 10 triệu
đồng tiền vốn thì cũng giúp được cho hơn 1 triệu người. Nhưng cái chính của vấn
đề là sự lãng phí kia rất vô lý, không đáng có.
Ngoài ra tôi cũng xin được bổ xung
1 ý kiến nữa, hy vọng rằng nó sẽ góp thêm cơ sở để dân tộc cùng dứt khoát hơn
với đề nghị trên của 2 tác giả. Ý kiến của tôi liên quan đến khía cạnh kiến
trúc của lăng: kể từ khi lăng được khánh thành nhân dịp quốc khánh mùng
2.9.1975 đến nay, thì từ những người dân bình thường tới các kiến trúc sư, nhà
xây dựng, v.v. từ Bắc chí Nam mà tôi có dịp được tiếp xúc, phần lớn đều cho
rằng: công trình này không có những đường nét của kiến trúc hiện đại, cũng lại
rất nghèo tính dân tộc. Tức là nếu xét thêm về khía cạnh kiến trúc thì cũng
không có giá trị gì đáng kể để mà phải tiếc nuối nữa. Có lẽ vì chạnh lòng với
công trình quốc gia khá nặng nề và đơn điệu này, ai đó đã sửa lại lời những câu
đầu của bài hát Viếng Lăng Bác (nhạc: Hoàng Hiệp, thơ: Viễn Phương), mà thành:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, con thấy lăng Ông đẹp hơn lăng Bác, trăm phần
trăm,…” (lăng Ông: lăng ông Lê Văn Duyệt - một võ tướng đầu triều Nguyễn, lập
tại khu Bà Chiểu - Sài Gòn; trăm phần trăm = 100%.).
7- Những lời thay cho kết luận:
Trong diễn văn đáp từ của nguyên
tổng bí thư ÐCS Việt Nam Lê Khả Phiêu đọc tại Hà Nội ngày 18.11.2000 vừa qua,
nhân dịp tổng thống Mỹ lúc ấy là Bill Clinton sang thăm Việt Nam có đoạn: “...Ðiều
chắc chắn là trong thế kỷ 21, khoa học công nghệ sẽ phát triển như vũ bão.
Nhưng lại có một nghịch lý là hố ngăn cách giữa nước giầu và nước nghèo lại
ngày càng lớn. Ngày nay, tổng số tài sản của hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng
thu nhập của hơn 2 tỷ người ở các nước nghèo.”
Ðúng! Ðấy là thực tế và người đọc
hiểu ngay rằng ý ông muốn nhấn mạnh đến sự bất công của một thế giới ngày càng
bị phân hóa giầu - nghèo hôm nay. Nhưng còn một thực tế nữa là: liệu những
người lãnh đạo trong ÐCS Việt Nam trước và sau ông có dám làm triệt để việc kê
khai danh sách của 300 người giầu nhất ở Việt Nam hôm nay hay không? Họ là
những ai? Có bao nhiêu tiền? Ðể ở những đâu? Bằng cách nào họ đã làm giầu được
nhanh như vậy? Tổng số tiền mà họ đã tích lũy được là bằng thu nhập của bao
nhiêu triệu người nghèo ở Việt Nam ? v.v…
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý như 2 tác
giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân đề nghị, nếu nó được tiến hành sẽ là
cuộc tổng diễn tập cho một bước dân chủ cao hơn. Ðó là: dân tộc Việt Nam phải
được quyền tự mình lựa chọn giữa thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, đa đảng
và pháp trị của thời đại mới, hay là cứ phải tiếp tục duy trì mãi thể chế nhất
nguyên, đơn đảng của “thời đại Hồ Chí Minh” đầy đau thương hôm qua, lắm bất
công hôm nay và vô vàn những rủi ro, bất trắc vào ngày mai.
Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể dân tộc
ta ở cả trong và ngoài nước, một khi đã nhận thức lại được đúng những vấn đề
của quá khứ và hiện tại thì sẽ vượt qua được những khoảng cách biệt còn lại. Ðể
trong tương lai có thể đoàn kết thành một khối thống nhất tạo ra được một sức
mạnh tổng hợp, nhằm đấu tranh có hiệu quả hơn với các thế lực bảo thủ hiện nắm
thực quyền trong ÐCS Việt Nam.
Trong thực tế có những người giận
ngày “quốc hận” 30 tháng 4, giận mùa xuân năm 1975, rồi giận lây sang cả mùa
thu năm 1945 với cuộc Cách Mạng Tháng 8 lịch sử, vì cho rằng đây là chiến công
riêng do CT HỒ Chí Minh và ÐCS Ðông Dương lúc đó lãnh đạo. Theo tôi đây là điều
chứa đựng nhiều sai lầm, bởi vì thành công của cuộc CMT8 là chiến công chung
của mọi người Việt Nam , trong đó có cả vai trò của các đảng phái khác. Tất cả
lúc ấy đều đã sẵn sàng gác bỏ mọi quyền lợi riêng, để cùng đồng lòng đứng lên
giành lại nền độc lập tự do cho Tổ Quốc.
Nó cũng là kết quả được hun đúc bởi
truyền thống dựng nước và giữ nước từ ngàn đời xưa, từ lịch sử gần 100 năm
kháng Pháp của ông cha ta, và mọi người Việt Nam đều có quyền tự hào chính đáng
về nó. Với một nước Việt Nam mới, chắc chắn trang sử hào hùng ấy của dân tộc ta
cũng sẽ được các sử gia viết lại cho khách quan và chính xác hơn. Một ngày hội
lớn về dân chủ của non sông nhất định sẽ được mở ra trong một tương lai gần.
Khi mà khối đoàn kết toàn dân gồm 80 triệu người, với hơn 76 triệu đồng bào ta
ở trong nước và 3 triệu đồng bào ta ở nước ngoài đã được xác lập vững chắc. Ðó
là niềm tin mãnh liệt của tôi.
Phương Nam Đỗ Nam Hải – Australia, tháng 7 năm 2001.
*
3) Một vài suy nghĩ sau khi đọc
lại tập thơ NHẬT KÝ TRONG TÙ.
Phương Nam (Đỗ Nam Hải)
Nhân dịp kỷ niệm 118 năm, ngày sinh
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2008), nhà xuất bản Chính Trị Quốc
Gia, địa chỉ: 24, Quang Trung, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, đã tái bản tập thơ
"Nhật Ký Trong Tù" (còn được gọi là "Ngục Trung Nhật Ký").
Người chịu trách nhiệm xuất bản là Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng và người chịu trách
nhiệm về nội dung là Tiến Sĩ Nguyễn Minh Nghĩa. Thơ được in xong và nộp lưu
chiểu năm 2008. Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản trên, ở trang 7, thì: “Đây
là một tập thơ chữ Hán gồm hơn 100 bài thơ, phần cuối có ghi chép về quân sự và
thời sự, được Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian hơn 1 năm
(29/8/1942-10/9/1943), Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt
giam trái phép tại các nhà tù ở tỉnh Quảng Tây Trung Quốc... Tập thơ được đánh
giá là một văn kiện lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học xuất sắc, có tác
dụng giáo dục sâu sắc; phẩm chất và đạo đức cách mạng cho nhiều thế hệ...”
Như nhiều người Việt Nam ở trong
nước, tôi cũng đã từng học, từng đọc và từng nghe nhiều về tập thơ ấy. Trong
tháng 8 năm 2008 này, tôi cũng có dịp đọc lại nó. Tuy nhiên, mục đích của tôi
khi viết bài nầy không phải là để phân tích về phong cách nghệ thuật của tác
giả tập thơ. Bởi một lẽ đơn giản: tôi không phải là nhà thơ, nên dẫu có muốn
thì tôi cũng không có đủ khả năng để làm công việc ấy.
Mục đích chính của tôi khi viết bài
này là muốn nêu lên một nhận xét lớn nhất, bao trùm nhất của mình đối với quí
vị độc giả rằng: dường như tâm hồn của tác giả tập thơ "Nhật Ký Trong
Tù" là tâm hồn của một người Trung Hoa chứ không phải là tâm hồn của một
người Việt Nam! Mà Chủ tịch Hồ Chí Minh như chúng ta đã biết thì cả quê nội và
quê ngoại của ông đều thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, thuộc
miền Trung Việt Nam. Điều đó có nghĩa ông là một người Việt Nam 100%. Vì vậy
theo tôi, rất khó có cơ sở để nói rằng ông là tác giả của "Nhật Ký Trong
Tù" được. Trừ khi ông là người Việt Nam nhưng lại hoàn toàn mang tâm hồn
của người Trung Hoa khi làm thơ thì thôi, không nói làm gì.
Để chứng minh cho nhận xét trên,
tôi xin được phân tích nội dung của một số bài trong tập thơ ấy. Trước hết là
bài "Tết Song Thập Bị Giải Đi Thiên Bảo", trang 68:
Nhà nhà hoa Tết với đèn giăng
Quốc Khánh reo vui cả nước mừng
Lại đúng hôm nay ta bị giải
Oái oăm gió cản cánh chim bằng
Theo tôi, với một người đang bị tù
thì việc người đó hồi tưởng về quá khứ, kể cả việc hồi tưởng về ngày Quốc Khánh
của Tổ quốc mình thì đó là chuyện hết sức bình thường. Thế nhưng, hai chữ
"Song Thập" có trong tựa đề của bài thơ trên có nghĩa là gì? Theo chú
thích ở trang 293 của chính tập thơ trên thì: "Song Thập tức là ngày mùng
10/10 là ngày Quốc khánh của Trung Hoa Dân Quốc trước đây."
Như vậy là đã rõ: Ngày Quốc khánh ở
đây là ngày Quốc khánh của Trung Hoa chứ không phải là ngày Quốc khánh của Việt
Nam. Và cái việc nhà nhà kết hoa, giăng đèn ấy dĩ nhiên cũng là nhà nhà Trung
Hoa chứ không phải là nhà nhà Việt Nam!
Để rõ hơn, chúng ta hãy cùng trở
lại với lịch sử Trung Quốc đầu thế kỷ thứ 20 vừa qua: ngày 10/10/1911, tại Vũ
Xương, Trung Quốc đã diễn ra cuộc khởi nghĩa của nhiều tổ chức cách mạng Trung
Quốc. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi tại Vũ Xương đã mở đường cho sự thắng lợi
toàn diện của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, kết thúc chế độ quân chủ lập hiến
ở Trung Quốc. Hai ngày sau, nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập và cuộc cách
mạng đó còn được gọi là cuộc Cách Mạng Tân Hợi.
Sự hồi tưởng về quá khứ của nhà thơ
thì đã là như vậy, thế còn những chiêm nghiệm về hiện tại của ông thì sao?
Trong bài "Kỷ Niệm Họ Hầu Tặng Một Cuốn Sách" trang 267, tác giả
viết:
Sách ngài chủ nhiệm mới đưa sang
Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang
Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ
Chân trời một tiếng sấm rền vang
Theo chú thích ở trang 298 thì
"Hầu chủ nhiệm tức Hầu Chí Minh là chủ nhiệm chính trị chiến khu 4, người
đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch."
Còn theo lịch sử của đảng Cộng Sản
Việt Nam thì: tháng 1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, sau gần 30 năm xa Tổ
quốc. Ông ở tại hang Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tháng 5/1941, Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) ra đời, do ông làm lãnh tụ.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là: bản
thân ông Hồ Chí Minh đã là lãnh tụ rồi thì cái sự "Còn vẳng bên tai lời
lãnh tụ" là lãnh tụ nào nữa? Tôi đã thử đưa ra những giả thiết có
thể, nhưng bằng phương pháp loại trừ đã cho phép tôi kết luận: cả vị lãnh tụ
lẫn nhà thơ trong bài thơ trên chỉ có thể là hai người Trung Hoa, chứ không thể
là hai người Việt Nam được!
Mặt khác, đọc hết toàn bộ tập thơ, người đọc tuyệt nhiên
không hề thấy tác giả đề cập gì đến những tên sông, tên núi, tên người Việt Nam
đã từng đi vào sử sách, thơ ca.
Đâu rồi những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa? Đâu rồi những Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám? Và đâu rồi những sự kiện lịch sử chỉ mới diễn ra ở Việt
Nam một vài năm, trước khi ông Hồ Chí Minh bị bắt như: Hai cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn (tháng 9/1940), Nam Kỳ (11/1940) và cuộc binh biến Đô Lương (01/1941), với
máu của bao người Việt Nam đã đổ xuống vì nền độc lập dân tộc? Ngay cả những
đồng chí cộng sản của ông như: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn
Thụ, Võ Văn Tần, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, v.v... Tất cả đều không thấy
xuất hiện trong "Nhật Ký Trong Tù".
Đọc đến đây, có thể có người sẽ nêu
ý kiến phản biện cho rằng: vì Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó đang bị tù ở Trung
Quốc, nên rất có thể ông đã tạm quên Việt Nam đi trong tâm thức của mình chăng?
Nhưng theo tôi, ý kiến này là rất khó thuyết phục. Bởi vì, thực tế sau đây sẽ
chứng minh cho điều ngược lại: trong cuốn sách "Những Mẩu Chuyện Về Đời
Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch", do Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội phát hành vào
năm 2001, tác giả Trần Dân Tiên người đã viết lại theo lời kể của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, vào tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, về giai đoạn này của ông ở trang 105
và 107 như sau:
“Đi liền 10 đêm và 5 ngày, Cụ Hồ
đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì chiều hôm đó Cụ bị bắt. Và
gian khổ lại bắt đầu. Quốc Dân Đảng giam Cụ vào nhà lao T.H.S hơn hai tuần,
ngày mang gông, đêm đeo cùm,... Trong khi Cụ Hồ lê lết tấm thân mệt lử từ nhà
giam này đến nhà giam khác, có lẽ những việc lớn đang dồn dập trong nước và
trên thế giới. Ai khuyên bảo đồng chí? Ai giúp đỡ và đẩy mạnh việc tổ chức? Có
lẽ các nước đồng minh đã đổ bộ lên Đông Dương? Có lẽ Pháp, Nhật đã cắn nhau? Có
lẽ các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Đông Dương và các hội viên Việt Minh đang
đau đớn hỏi nhau Cụ Hồ bị tai nạn gì? Lòng Cụ Hồ rối như tơ vò vì phải ngồi im
vô ích, trong khi công việc đang đòi hỏi Cụ mà thời gian đi qua không chờ
Người.”
Như vậy cũng là đã rõ: sẽ thật là
vô lý nếu như những mối lo gan ruột kia lại không hề được nhà thơ Hồ Chí Minh
thể hiện gì, dù chỉ là một dòng trong "Nhật Ký Trong Tù"? Ngoài ra: tại sao lần này đi tù tại Quảng
Tây - Trung Quốc, thời gian là hơn một năm (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943)
thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nổi hứng làm thơ? Trong khi, lần đi tù trước ở
Hồng Kong, thời gian là gần hai năm (từ tháng 6/1931 đến tháng 1/1933) lâu hơn
thì lại không thấy ông làm bài thơ nào? Tôi tin rằng, nếu ai đọc kỹ tập thơ
trên thì cũng đều có những thắc mắc tương tự như tôi hoặc nhiều hơn tôi.
Nói tóm lại, viết về Chủ tịch Hồ
Chí Minh, lại viết về một vấn đề có tính nhạy cảm như thế này, tôi hiểu rằng là
cần phải hết sức khách quan và thận trọng. Nhưng theo tôi, dù vấn đề có là nhạy
cảm và cần phải thận trọng đến đâu đi chăng nữa thì không có nghĩa là không nên
viết, không nên phản biện lại những gì liên quan đến ông. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp trên tinh thần xây dựng, kể cả những ý kiến phản
biện của độc giả xa gần. Mục đích là để có thể sớm đưa ra được kết luận chính
xác về vấn đề nêu trên. Tôi xin chân thành cảm ơn trước.
Điều đáng buồn ở Việt Nam từ trước
đến nay, nhất là ở lĩnh vực khoa học xã hội là tình trạng phản biện phổ biến
theo kiểu "Một chiếc máy bay chia thành hai tốp máy bay". Điều
đó hoàn toàn là hình thức và phản khoa học. Nó vừa gây mất thời gian, tiền bạc của
xã hội; vừa tạo ra sự xuê xoa, nể nang, thậm chí là lừa dối lẫn nhau, rất tai
hại. Đề cập đến vấn đề này, nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô (giai đoạn
1985-1991) M. Gorbachev đã có những nhận xét rất xác đáng trong cuốn sách
"Cải Tổ Và Tư Duy Mới" – Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1988, trang 24
như sau:
“Trong khoa học xã hội nảy nở thói
lý luận kinh viện. Những tư tưởng sáng tạo bị loại trừ ra khỏi ngành khoa học
xã hội. Những sự đánh giá và phán đoán hời hợt, duy ý chí trở thành những chân
lý không thể bác bỏ được mà chỉ cần thuyết minh. Những cuộc tranh luận khoa
học, lý luận và những cuộc tranh luận khác bị cướp mất nội dung sinh động, mà
không có những cuộc tranh luận này thì không thể phát triển tư tưởng, không thể
có sinh hoạt sáng tạo được. Những khuynh hướng tiêu cực không chừa các lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, chính trị và các lĩnh vực giáo dục, y tế. Và ở đây nổi lên
chủ nghĩa trung bình, chủ nghĩa hình thức, lối nói trống rỗng,...”
Khoảng giữa năm 2001, khi còn đang
sinh sống tại Australia, tôi có viết bài "Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí
Minh", với bút hiệu là Phương Nam. Trong đó, tôi có đặt ra một số vấn đề
nữa, liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau:
1/ Chủ tịch Hồ Chí Minh có phải là
danh nhân văn hóa thế giới đã được tổ chức UNESCO công nhận, nhân dịp kỷ niệm
100 ngày sinh của ông (19/5/1890-19/5/1990) như các phương tiện thông tin đại
chúng ở Việt nam đã nêu hay không?
2/ Ở thủ đô Paris của nước Pháp vào
đầu thế kỷ thứ 20 vừa qua là chỉ có duy nhất một ông Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn
Tất Thành, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc
khác nhau?
3/ Tác giả Trần Dân Tiên viết cuốn
sách "Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch", nói ở trên
có phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không?
v.v…
Nay xin được trân trọng giới thiệu
lại cùng quí vị độc giả quan tâm, trong phần phụ lục ở dưới bài viết này. Xin
trân trọng kính chào!
Đỗ Nam Hải (Phương Nam)
Thành phố Sài Gòn - Việt Nam.
Tháng 8 năm 2008.
---------------------------------------------
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) 5-2-2013
16
Comments
No comments:
Post a Comment