Sheri
Bernard
Trần
Ngọc Cư
dịch
25-2-2013
(Trong
phát triển chính trị, không thành quả nào mà không gian khổ)
Người
ta dễ dàng cảm thấy bi quan về Mùa Xuân Á Rập, nếu chỉ nhìn vào tình trạng
nhiễu nhương hậu cách mạng mà vùng Trung Đông đang trải qua. Nhưng các người
chỉ trích quên rằng các nền dân chủ mới mẻ cần phải có thời gian để vượt qua
quá khứ độc tài của chúng. Như lịch sử phát triển chính trị tại các nơi khác
cho thấy, nhất định tình hình sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
SHERI
BERNARD là Giáo sư Khoa Chính trị tại Barnard College, Đại học Columbia, Hoa
Kỳ.
Foreign
Affairs
--------------------
Chỉ
trong vòng hai năm tiếp theo sau sự bộc phát của cái gọi là Mùa Xuân Á Rập, nụ
hồng đã vội hết thời xuân sắc. Các chế độ dân chủ non trẻ tại Bắc Phi đang phấn
đấu vất vả để tiến lên hay thậm chí để giữ được quyền kiểm soát, những cuộc đàn
áp của chính phủ tại vùng Vịnh Ba Tư và những nơi khác đã chặn đứng tiến trình
tự do hóa, và Syria ngày càng lún sâu vào một cuộc nội chiến ác liệt đang đe
dọa châm ngòi toàn khu vực Trung Đông. Thay vì có một sự hân hoan đều khắp về sự
kiện thể chế dân chủ cuối cùng đã đến với vùng này, bây giờ người ta lại nghe
trỗi lên chủ nghĩa bi quan về nhiều trở ngại trên con đường tiến tới dân chủ,
nỗi sợ hãi về những gì sắp xảy ra, và thậm chí cả lòng hoài cổ công khai về
trật tự của chế độ độc tài trước đây. Tháng Sáu vừa qua, khi quân đội Ai Cập
giải tán Quốc hội và cố đẩy lùi lịch sử bằng cách phá rỗng chế độ tổng thống
dân sự, nhà bình luận đối ngoại chính của tờ The Wall Street Journal đã
nửa đùa nửa thật, “Ta hãy hy vọng chế độ dân sự này có thể vận hành tốt” (Thật
ra nó không được như vậy). Và âm mưu giành quyền lực [từ tay quân đội] của Tổng
thống Ai Cập Mohamed Morsi vào tháng Mười một đã làm cho việc tiếc nuối chế độ
cũ trở nên bình thường.
Mặc
dù chủ nghĩa hoài nghi này là điều có thể đoán được, nhưng nó cũng sai lầm
không kém. Mỗi đợt dân chủ hóa trong thế kỷ vừa qua – sau Thế Chiến I, sau Thế
Chiến II, trong cái gọi là làn sóng dân chủ thứ ba vào những thập niên gần đây
– đều được tiếp nối bằng một giai đoạn thoái trào, đi kèm với một thái độ hoài
nghi phổ biến về khả năng phát triển và thậm chí cả sự đáng được thèm muốn của
việc quản trị quốc gia theo đường lối dân chủ tại các vùng liên hệ. Ngay sau
khi tiến bộ chính trị khựng lại, một phản ứng bảo thủ liền diễn ra, trong khi
các người chỉ trích lên tiếng ta thán về tình trạng nhiễu nhương của thời đại
mới và tiếc nuối tình trạng được cho là ổn định và an ninh của kỷ nguyên độc
tài trước đó. Người ta hy vọng rằng trình độ dân chúng ngày nay sẽ khá hơn –
rằng họ sẽ hiểu rằng phát triển chính trị thật ra là như thế đấy, hiện nay cũng
như trong quá khứ, ở phương Tây cũng như tại Trung Đông, và rằng con đường duy
nhất trước mặt là phải lao tới tương lai chứ không quay đầu trở lại quá khứ.
Sai
lầm đầu tiên mà các người chỉ trích vấp phải là, họ coi các chế độ dân chủ mới
mẻ như những tấm bảng chưa hề được viết lên, bất chấp những động lực và vận
mệnh được thừa hưởng hơn là được lựa chọn. Tình trạng nhiễu nhương, bạo động,
và tham nhũng được họ coi như là bằng chứng của sự rối loạn chức năng có sẵn
trong bản thân của thể chế dân chủ, hay của sự ấu trĩ hoặc phi lý của một khối
dân chúng đặc thù, chứ không phải là những căn bệnh của chế độ độc tài trước
đó. Bởi vì các chế độ độc tài vốn không có chính nghĩa trước nhân dân, chúng
thường dùng thủ đoạn để vận dụng và đào sâu hố ngăn cách trong xã hội nhằm chia
rẽ các thành phần có tiềm năng chống đối và tạo hậu thuẫn cho chúng từ các nhóm
được ưu đãi. Vì thế khi tiến trình dân chủ hóa diễn ra, mối nghi kỵ và thù ghét
lẫn nhau bị dồn nén lâu ngày thường bùng nổ. Và vì các chế độ độc tài cai trị
bằng mệnh mệnh chứ không phải bằng sự đồng thuận, chúng đàn áp các thành phần
bất đồng chính kiến và ngăn chặn việc thành lập các cơ chế chính trị và xã hội
nhằm giúp người dân phát biểu và thể hiện đòi hỏi của mình một cách bình
thường. Do đó, người dân trong các chế độ dân chủ mới mẻ thường bày tỏ những
bất bình của mình một cách tùy tiện và thiếu tổ chức, bằng một mạng lưới choáng
ngợp gồm nhiều đảng phái, bằng luận điệu và hành động cực đoan, bằng các cuộc xuống
đường và thậm chí đánh nhau.
Tất
cả những động cơ này đã biểu hiện tiếp theo sau Mùa Xuân Ả Rập. Tại Ai Cập,
chẳng hạn, các chế độ Anwar al-Sadat và Hosni Mubarak trước đó đã không cho
phép các chính đảng có thực chất hay các tổ chức dân sự độc lập phát triển; sự
kiện này giúp ta hiểu được tại sao Hồi giáo (Islamism) là lực lượng chính trị
có quá nhiều ưu thế hiện nay. Trước đây, các tổ chức tôn giáo vốn đã nằm trong
số những diễn đàn duy nhất, qua đó người dân trung bình có thể bày tỏ nguyện
vọng hay tích cực tham gia các sinh hoạt trong cộng đồng của họ. Vì thế khi
Mubarak bị lật đổ và sự chuyển đổi chính trị diễn ra, thì chỉ một mình các lãnh
đạo Hội giáo có sẵn cơ sở hạ tầng để huy động hậu thuẫn một cách hiệu quả. Tình
trạng kém phát triển của các tổ chức xã hội dân sự và chính trị, vì thế, có
nghĩa là một khi chế độ độc tài tan rã, sẽ không mấy cơ chế có đủ khả năng nói
lên những bất bình của người dân, huống hồ đáp ứng được chúng. Điều này giải
thích sự thiếu vắng các đảng phái phi-Hồi giáo có thực lực hiện nay và giúp ta
hiểu được khuynh hướng xuống đường của người Ai Cập để bày tỏ những đòi hỏi và
nỗi bất bình của mình. Nước cờ của Tổng thống Morsi vào tháng Mười một vừa qua,
nhằm tránh né việc duyệt xét tính hợp hiến (judicial review) của các sắc lệnh
mà ông đưa ra, phản ánh sự hoài nghi rộng lớn trong khối Hồi giáo đối với hệ
thống toà án Ai Cập, một phần vì thiếu một chế độ pháp trị đáng tin cậy trong
thời đại Mubarak, cũng như tình trạng các lực lượng chống Mubarak hiện không
thể hợp tác với nhau phản ánh lịch sử phân hóa tai hại của họ dưới chế độ độc
tài trước đây. Như Ahmed Mekky, Bộ trưởng Tư pháp, đã nói đến cuộc tranh cải về
việc duyệt xét tính hợp hiến nói trên như sau: “Tôi qui trách nhiệm cho cả nước
Ai Cập, bởi vì họ không biết cách đối thoại với nhau” – nhưng đây chính là ý đồ
của Mubarak.
Những
chuyện tương tự như vậy được nói về các chế độ độc tài Trung Đông khác. Tại
Iraq, Saddam Hussein đã cố tình tạo nhiều mâu thuẫn trực tiếp giữa các bộ phận
dân chúng khác nhau như một phương cách để ràng buộc một số nhóm lợi ích nhất
định vào chế độ, đồng thời làm suy yếu bất cứ tiềm năng chống đối nào. Lề thói
này, cùng với việc chế độ hoàn toàn dẹp bỏ các sinh hoạt chính trị và xã hội
công dân bình thường, có nghĩa là Iraq sẵn sàng rơi vào tình trạng bạo loạn một
khi chế độ Saddam sụp đổ – một tiến trình mà chính Mỹ cũng thúc đẩy bằng cách
không chịu giúp đỡ để Iraq có được một trật tự mới hữu hiệu nhằm thay thế trật
tự cũ. Tại Lybia, Muammar al-Qaddafi đã cai trị bằng một chế độ độc tài cá nhân
quái gở, một chế độ độc tài đã làm cho đất nước ông trở thành hoàn toàn không
có guồng máy nhà nước (stateless) sau khi ông bị lật đổ, khiến chính phủ mới
tại Tripoli phải rất vất vả trong nỗ lực thiết lập trật tự khắp lãnh thổ của
mình. Và tạiSyria, chế độ độc tài của gia đình Assad đã dành đặc ân cho nhóm
thiểu số Alawite, bất chấp quyền lợi của các cộng đồng khác, tạo điều kiện cho
sự tranh chấp phe phái khi chế độ Assad tan rã.
Ngoài
việc gán cho các chế độ dân chủ mới mẻ những thứ tội của các chế độ độc tài đi
trước, những người chỉ trích còn đặt ra những tiêu chuẩn thành công ở một nấc
cao đến độ phi lý, hoàn toàn không có trong lịch sử. Họ giải thích tình trạng
bạo động, nạn tham nhũng, sự hỗn loạn và bất lực, tiếp theo cuộc chuyển đổi
chính trị, như là những dấu hiệu cho thấy một số quốc gia đặc thù (hay thậm chí
toàn bộ một khu vực hoặc tôn giáo đặc thù) là không sẵn sàng chấp nhận dân chủ,
như thể các thời kỳ quá độ dân chủ bình thường sẽ êm ả dẫn thẳng đến các thành
tựu tự do ổn định và như thể các nước vấp ngã trên con đường tiến tới dân chủ
nhất định đã mang trong mình một cái gì sai hỏng. Thật ra, chế độ dân chủ tự do
ổn định thường thường chỉ xuất hiện sau các cuộc đấu tranh bạo động lâu dài,
đầy những quanh co khúc khuỷu, những khởi động giả hiệu, và những con đường
vòng.
Hơn
nữa, những vấn đề này không phải là một khuyết tật kỹ thuật, mà là một đặc điểm
của tiến trình – không phải là những dấu hiệu cho thấy các vấn đề gắn liền với
thể chế dân chủ, mà là bằng chứng cho thấy tiến trình khó khăn phức tạp của sự
nghiệp phát triển chính trị, qua đó các xã hội gột rửa các tàn tích của chế độ
độc tài và xây dựng các trật tự dân chủ mới mẻ và tốt đẹp hơn. Thể chế dân chủ
tự do ổn định không những chỉ đòi thay đổi chế độ chính trị, mà còn đòi hỏi
phải loại bỏ những di sản xã hội, văn hóa, và kinh tế của chế độ cũ. Một tiến
trình này cần đến nhiều thời gian và nỗ lực, qua nhiều cuộc thử nghiệm. Lịch sử
cho thấy, hầu hết các cuộc chuyển đổi chính trị ban đầu mới chỉ là bước khởi
đầu chứ không phải là giai đoạn kết thúc của tiến trình dân chủ hóa – đây là
điều mà lịch sử đau thương của các nền dân chủ trưởng thành của thế giới ngày
nay đã chứng minh.
NHỮNG
BÀI HỌC CỦA NƯỚC PHÁP
Hãy
lấy nước Pháp làm ví dụ. Cũng như Mùa Xuân Ả Rập và các đợt dân chủ hóa toàn
cầu khác gần đây, sự sụp đổ của chế độ độc tài cha truyền con nối tại Pháp năm
1789 được giới quan sát trên địa cầu hân hoan chào đón. Trong tác phẩm The
Prelude (Khúc dạo đầu), William Wordsworth đã nhớ lại thời điểm này như là
lúc mà toàn châu Âu “bồi hồi sung sướng/ Nước Pháp đứng trên đỉnh cao của giờ
phút huy hoàng/ Và tính người như được tái sinh”. Nhưng mặc dù thế giới có thái
độ lạc quan ban đầu, cuộc chuyển đổi chính trị đã nhanh chóng chệch hướng. Năm
1791, với sự tuyên bố thành lập chế độ quân chủ lập hiến, nước Pháp đã thực
hiện thí nghiệm đầu tiên để tạo ra một trật tự chính trị mới, nhưng chế độ
chính trị ôn hòa này đã bị cả phe phản động lẫn phe cực đoan bác bỏ. Chẳng bao
lâu, phe cực đoan thắng thế, và vào năm 1793, họ hành quyết nhà vua và tuyên bố
một nền cộng hoà với quyền bầu phiếu phổ thông, đồng thời cam kết tôn trọng một
loạt quyền công dân và quyền chính trị rộng rãi. Sau đó, nền dân chủ hiện đại
đầu tiên này của châu Âu nhanh chóng suy sụp và trở thành cái gọi là Triều đại
Khủng bố (the Reign of Terror), trong đó vào khoảng từ 20.000 đến 40.000 người
đã bị xử tử vì những hoạt động “phản cách mạng”.
Lý
thuyết gia chính trị Anh Edmund Burke chỉ là một nhà phê bình bảo thủ nổi tiếng
nhất đã tranh luận rằng những kinh nghiệm lịch sử này cho thấy các hiểm họa của
việc thay đổi chính trị một cách cực đoan và sự cần thiết phải có một giới tinh
anh và các định chế chính trị để kềm hãm sự cuồng nhiệt của quần chúng. Nhưng
Burke và các nhà phê bình khác đã sai lầm. Xung đột và bạo loạn tiếp theo sau
Cách mạng Pháp không phải là hậu quả tất yếu của bản thân thể chế dân chủ hay
của sự thiếu chín chắn về phía quần chúng Pháp; nói đúng ra, chúng phát xuất từ
đường lối cai trị của chế độ độc tài trước đó. Chế độ cũ đã dựa vào một liên minh
giữa nhà vua và một bộ phận rất nhỏ bé trong xã hội, chủ yếu là giới quí tộc.
Để nắm được hậu thuẫn của các nhà quí tộc này, các vua Pháp đã mua chuộc họ
bằng các đặc quyền đặc lợi tài chánh, gồm có lương hưu, chế độ bảo trợ [chế độ
ô dù], cách đối xử đặc biệt về pháp lý, khả năng tiếp cận các cơ hội thương mại
béo bở, và được miễn thuế. Hệ thống này đã cho phép dòng họ Bourbons ổn định
được tình hình đất nước và bắt đầu công cuộc xây dựng một nhà nước hiện đại
trung ương tập quyền. Nhưng nó tạo ra một cảm thức phổ biến trong dân chúng
rằng giới quí tộc Pháp là một tầng lớp ăn bám đã rút tỉa nguồn lực quốc gia
đồng thời bóc lột giới nông dân. Nói tóm lại, chế độ cũ đã tựa lên một cơ sở xã
hội cực kỳ nhỏ bé, với nhà vua và giới quí tộc được gắn chặt trong một liên
minh thiếu lành mạnh, một liên minh đã tạo ra sự oán ghét và xung đột giữa các
tầng lớp hạ lưu và các bộ phận được ưu đãi trong xã hội. Như học giả Hilton
Root nhận định, sự kiện này đã đưa đến một “xã hội bị phân hóa thành những nhóm
khép kín, chỉ biết đến mình thôi” – và các thành viên của những nhóm này, như
Alexis de Tocqueville trích lời một vị trong những bộ trưởng của Louis XVI, đã
“không mấy liên hệ với nhau, khiến cho mỗi người chỉ nghĩ đến lợi ích riêng tư
của mình, và không có một mảy may quan tâm nào đối với phúc lợi công cộng”.
Vào
nửa sau của Thế kỷ XVIII, phần lớn vì những cuộc chiến tranh tốn kém và thất
bại nặng nề, nhà nước Pháp gặp phải vấn đề tài chính rất nghiêm trọng. Không
muốn tăng thuế trên giới giàu có vốn được ưu đãi, chế độ phải dùng đến biện
pháp vay mượn ngày càng nhiều, và vào thập niên 1780, gánh nặng nợ nần trở nên
không còn chịu đựng được nữa. Vào thời điểm nhà vua rốt cuộc bị buộc phải triệu
tập một quốc dân đại hội vào năm 1789 để cố gắng đối phó những vấn đề của đất
nước, những xung đột vốn đã âm ỉ lâu ngày ở bên trong và ở giữa các phe nhóm xã
hội-kinh tế bùng nổ công khai, và nước Pháp được đặt vào con đường dẫn đến cách
mạng và tình trạng xáo trộn hậu cách mạng.
Nếu
thử nghiệm dân chủ đầu tiên của nước Pháp có thất bại đi nữa, nó cũng đã đóng
góp sâu sắc cho việc hình thành sau cùng một chế độ dân chủ tự do ổn định. Về
mặt kinh tế, cuộc cách mạng Pháp đã thay thế hệ thống bảo trợ [chế độ ô dù] dựa
trên các tôn ti trật tự phong kiến giả hiệu bằng một hệ thống thị trường đặt cơ
sở trên quyền tư hữu tài sản và quyền bình đẳng trước pháp luật. Về mặt xã hội,
nó đã thay thế một xã hội được cấu trúc bởi những nhóm cha truyền con nối có
chức năng khác nhau (quí tộc, nông dân, v.v.) bằng một quốc gia gồm có những công
dân bình đẳng. Về mặt chính trị, nó đã thay đổi thái độ của người dân đối với
quyền công dân, các quyền khác, và việc quản trị đất nước hợp pháp. Và cuộc
cách mạng này đã nhanh chóng tăng tốc tiến trình hiện đại hóa quốc gia, thay
thế một mớ hỗn độn những sắp xếp địa phương và các thái ấp bằng một hệ thống
thư lại quốc gia và hệ thống thuế khóa quốc gia. Nói tóm lại, cuộc cách mạng
Pháp và hậu quả của nó đã trở thành những bước quan trọng đầu tiên trong một
cuộc đấu tranh kéo dài một thế kỷ rưỡi để loại bỏ chế độ cũ và thay vào đó bằng
một cái gì tốt đẹp hơn và dân chủ hơn.
TRƯỜNG
HỢP NƯỚC Ý
Trong
khi đó, nước Ý chỉ bắt đầu dân chủ hóa trước Thế chiến I. Chế độ mới bị băng
hoại vì xung đột xã hội và bất ổn chính trị ngay từ ban đầu, và những vấn đề
này bị hậu quả khó khăn của chiến tranh làm cho tồi tệ thêm. Vào thời kỳ
1919-1920, khoảng 1,3 triệu công nhân nhà máy tại các thành thị rời bỏ công
việc và tuyên bố rằng chính họ chứ không phải giới chủ và giới quản lý đang
trông coi nhà máy. Tình hình ở các vùng quê có lẽ còn hỗn loạn hơn khi nông dân
và các công nhân nông nghiệp chiếm giữ tài sản vắng người hay khiếm dụng và các
đại địa chủ phải phản ứng bằng cách thuê mướn các đội dân quân tư nhân (private
militia) để chặn đứng giới nông dân và các công nhân nông nghiệp nổi loạn. Hai
đảng chính trị lớn nhất nước, một đại diện cho Công giáo và một đại diện cho Xã
hội chủ nghĩa, không thể hoặc không muốn hợp tác với nhau hay có cam kết rõ
ràng đối với thể chế dân chủ, khiến việc xây dựng các chính phủ hữu hiệu ổn
định không thể thực hiện được. Nhiều người dân Ý nhanh chóng đâm ra chán ngán
với cuộc xung đột thườngxuyên và tình trạng bất ổn chính trị, rồi qui trách
nhiệm cho bản thân thể chế dân chủ về những vấn đề của đất nước. Và vào tháng
Mười 1922, những chính trị gia phản dân chủ giành được những gì mà họ mong muốn
khi vua Ý, được các nhà chính trị bảo thủ thúc đẩy, chấm dứt cuộc thí nghiệm
dân chủ và giao vận mệnh đất nước cho nhà lãnh đạo năng động của cánh hữu cực
đoan, đó là Benito Mussolini.
Cuộc
chuyển đổi qua chủ nghĩa phát-xít được nhiều người cả bên trong lẫn bên ngoài
nước Ý ca ngợi vì họ tin rằng chế độ độc tài cung ứng một cơ may tốt đẹp hơn để
tạo ra tình trạng ổn định và phát triển mà đất nước đang khao khát. Những năm
cầm quyền đầu tiên của Mussolini chỉ một mực gia tăng tiếng tăm của ông và sự
ca ngợi của dân chúng dành cho ông. Nhưng sự sùng bái này đã đặt không đúng
chỗ. Chế độ dân chủ ngắn ngủi trước đó là hấp dẫn hơn chế độ phát-xít tiếp
theo; hơn nữa, những vấn đề của thời kỳ dân chủ phần lớn được tạo ra bởi chế độ
phi dân chủ trước đó, một chế độ đã cố tình chia rẽ và dùng thủ đoạn để thao
túng dân chúng Ý, đồng thời không cho phép họ thường xuyên bày tỏ những nguyện
vọng và bất bình của mình.
Chỉ
một vài thập kỷ trước đó, bán đảo Ý gồm có nhiều quốc gia riêng biệt với lịch
sử chính trị, kinh tế, xã hội, và văn hóa khác nhau. Vì mạng lưới giao thông
nghèo nàn và vì thiếu một ngôn ngữ chung, nên hầu hết dân chúng trong khu vực
này không mấy hiểu biết và quan tâm đến nhau. Việc thống nhất lãnh thổ diễn ra
vào thập niên 1860 không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy của quần chúng,
mà là do các quyết sách từ trên, được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo của Piedmont,
quốc gia hùng mạnh nhất trên bán đảo. Người Piedmont chủ yếu áp đặt những gì có
thể gọi là một hệ thống chính trị ngoại bang (hệ thống của họ) trên phần còn
lại của khu vực. Do đó, quốc gia Ý mới mẻ này gặp sự chống đối lập tức –từ các
cộng đồng tự cảm thấy mình đã trở thành thuộc địa, bị người Piedmont bóc lột,
và từ Giáo hội Công giáo vì họ bác bỏ ý niệm một chính quyền thế tục vượt lên
trên giáo hội quản trị đời sống của người dân Ý.
Thiếu
khả năng và có lẽ không muốn gầy dựng hậu thuẫn từ phía quần chúng, tầng lớp
chính trị chóp bu của Ý cai trị đất nước mới mẻ này xuyên qua một hệ thống được
mệnh danh là trasformismo (chính phủ liên hiệp cánh giữa), bằng cách kết
nạp một số nhóm được ưu đãi nhất định vào trật tự chính trị xuyên qua hệ thống
bảo trợ [chế độ ô dù]. Bậc thầy đã sử dụng đường lối này là Giovani Giolitti,
vị Thủ tướng Ý ở vào nhiều thời điểm khác nhau từ năm 1892 đến năm 1921, một
chính trị gia đã bằng cách gia hạn hoặc trì hoãn sự bảo trợ của nhà nước và
bằng cách dùng các hợp đồng ở hậu trường để tưởng tưởng hoặc trừng phạt các
nhóm cử tri chủ chốt [Dưới thời Giolitti, toàn nước Ý chỉ có 2 triệu đàn ông có
quyền bầu cử và bị khống chế bởi giới đại địa chủ, ND]. Nói cách khác, nạn tham
nhũng được cơ chế hoá (institutionalized corruption) đã nằm sẵn trong lòng nhà
nước non trẻ của Ý từ những ngày đầu, một sự kiện đã để lại những hậu quả
nghiêm trọng cho sự nghiệp phát triển chính trị của đất nước về sau.
Vì
các định chế chính thức của nền chính trị nước Ý vào cuối Thế kỷ 19 và đầu Thế
kỷ 20 – gồm các cuộc tuyển cử và quốc hội – rõ ràng không phải là trọng tài
đích thực cho quyền lực chính trị, nhiều phe nhóm trong xã hội Ý không còn quan
tâm đến chúng và bắt đầu thành hình ngoài các định chế hay thậm chí chống lại
chúng. Ngoài ra, việc độc đoán loại trừ một số nhóm nhất định ra khỏi hành lang
quyền lực đã tạo phẫn nộ và thất vọng. Và vì hệ thống chính trị không đáp ứng
những quan tâm và đòi hỏi của dân chúng, những chia rẽ trong xã hội Ý đã không
được giải quyết một cách nhất quán hay có hiệu quả.
Tất
cả điều này có nghĩa là, khi một sự chuyển đổi hoàn toàn qua chế độ dân chủ
cuối cùng xảy ra, chế độ mới được khai sinh với hàng loạt vấn đề tồn đọng. Nói
cách khác, tình trạng hỗn loạn, xung đột, và bạo động vốn làm băng hoại nước Ý
trước khi Mussolini lên nắm chính quyền được gây ra không phải bởi quá nhiều
dân chủ (như những người chỉ trích rêu rao) nhưng bởi quá ít dân chủ trước đó.
Thời kỳ phát-xít là một bước thụt lùi chứ không phải là một bước đi tới, và khi
chế độ dân chủ Ý được phục hồi sau Thế chiến II, nó đã thừa hưởng những lợi ích
từ tiến trình thử nghiệm và lại tiếp tục phát triển từ nơi mà cuộc thí nghiệm
dân chủ trước đây bị dang dở.
MÔ
HÌNH ĐỨC
Nước
Đức bắt đầu dân chủ hóa cùng với làn sóng dân chủ tràn qua châu Âu sau Thế
chiến I, và từ buổi khai sinh, Cộng hòa Weimar non trẻ cũng bị đè nặng bởi
những vấn đề như xung đột xã hội, bất ổn chính trị, và chủ nghĩa cực đoan [Cộng
hòa Weimar là tên gọi các nhà sử học dùng để chỉ cộng hòa liên bang và thể chế
dân chủ đại nghị được thiết lập năm 1919 để thay thế chính phủ đế chế, ND]. Nội
trong vài tháng sau khi nền cộng hòa được thành lập, Cộng sản địa phương đã
tuyên bố khai sinh một cộng hoà Xô-viết tại Bavaria, nhưng nó liền bị lật đổ
bởi quân tình nguyện Freikorps, vốn là những đơn vị dân quân của cánh
hữu, phần lớn nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Sau đó Freikorps
tiếp tục các cuộc tàn phá, nhúng tay vào các vụ ám sát và biểu tình bạo động,
để rồi cuối cùng hậu thuẫn một cuộc đảo chánh hụt năm 1920; những cuộc nổi dậy
cánh hữu khác, gồm có cuộc Đảo chánh Beer Hall (Beer Hall Putsch) thất bại nhục
nhã của Hitler vào năm 1923, tiếp theo đó, và cả những cuộc nổi dậy của cánh tả
[Beer Hall là nơi công chúng tụ tập uống bia và cũng là nơi các chính khách
thường đăng đàn diễn thuyết, ND]. Và tình hình nghiêm trọng hơn cả là việc vào
năm 1923 Chính phủ Đức không trả nỗi các khoản nợ bồi thường chiến tranh đã
khiến Bỉ và Pháp giành quyền kiểm soát vùng Ruhr, nhanh chóng đưa đến nạn Đại
Lạm phát (the Great Inflation) – rốt cuộc xóa bỏ các giai cấp trung lưu Đức và
càng làm cho Chính phủ và các cơ chế chính trị chủ lưu (mainstream) khác mất
thêm chính nghĩa. Một mức độ ổn định nào đó thực sự đã diễn ra vào cuối thập
niên 1920, nhưng nước cộng hòa này chưa kịp thở lấy sức thì đã bị cuộc Đại
Khủng hoảng Kinh tế vùi dập. Những lực lượng chính trị chủ lưu chao đảo trước
thảm họa kinh tế chính trị đang lù lù xuất hiện, những phần tử cực đoan thắng
thế, và vào mùa Thu năm 1932, Đảng Quốc Xã trở thành đảng lớn nhất nước, đã vận
động tranh cử bằng chương trình hành động kết hợp những mũi tấn công vào thể
chế dân chủ với những hứa hẹn giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa tư bản, đồng
thời hàn gắn những phân hóa xã hội của Đức. Tháng Hai 1933, Hitler được trao
ghế Thủ tướng, và cuộc thử nghiệm dân chủ tại Đức kết thúc.
Chẳng
mấy ai có đủ lý do để tin chắc rằng thế giới Ả Rập sẽ mãi mãi là một ngoại lệ
của những qui luật phát triển chính trị. Phản ánh những sợ hãi và phân tích bi
quan của Burke và những học giả khác, hàng loạt các nhà phê bình bảo thủ cho
rằng Cộng hòa Weimar và các thử nghiệm dân chủ thất bại khác giữa hai cuộc Thế
chiến chứng tỏ rằng thể chế dân chủ và sự tham gia của đại chúng vào các sinh
hoạt chính trị không sớm thì muộn thường đưa đến thảm họa. Họ cho rằng chỉ có
những hệ thống chính trị độc tài được cai trị bởi một nhà lãnh đạo cứng rắn mới
bảo đảm được kỹ cương và chặn đứng được tranh chấp xã hội, bất ổn chính trị và
suy đồi đạo lý. Nhưng một lần nữa, những nhà phê bình này lại sai lầm. Số phận
của Cộng hòa Weimar ít có liên hệ với bất cứ vấn đề nội tại nào trong thể chế
dân chủ hay điều mà nhà văn Tây Ban Nha José Ortega gọi là “con người quần
chúng” (mass man); nó có nhiều liên hệ hơn với di sản bi thảm của chủ nghĩa độc
tài Đức trước đó.
Nước
Đức hiện đại xuất hiện vào nửa sau của Thế kỷ 19, được thống nhất do quyết định
từ trên, dưới sự bảo trợ của bang mạnh nhất của nó, đó là nước Phổ (Prussia)
bảo thủ và quân phiệt. Chính phủ được điều hành bởi một thủ tướng chịu trách
nhiệm trước một vị vua cha truyền con nối (the kaiser) chứ không chịu trách
nhiệm với đại chúng; có hai viện lập pháp, thượng viện bị giới bảo thủ Phổ
khống chế và hạ viện được bầu chọn theo chế độ bầu cử phổ thông (universal
suffrage). Thủ tướng không cần đến hậu thuẫn của dân chúng để nắm quyền hành,
nhưng cần hậu thuẫn này để thông qua các đạo luật quan trọng. Chế độ độc tài
mềm dẻo hoặc hỗn hợp này đã mạnh mẽ khích lệ các nhà lãnh đạo dùng thủ đoạn
chính trị để đạt được những gì họ mong muốn đồng thời làm các thành phần đối
lập ở vào thế chông chênh chỉ biết phòng ngự. Otto von Bismark, ngồi ở chức vụ
thủ tướng gần hai thập kỷ, là một bậc thầy về hành động quân bình lực lượng
này. Một mặt, Bismark tạo ra một liên minh bảo thủ, phản dân chủ, gồm giới địa
chủ quí tộc rộng lớn và các nhà công nghiệp nặng; mặt khác, ông chia rẽ, đàn
áp, và bôi nhọ các đối thủ Công giáo và Xã hội chủ nghĩa, đồng thời đào sâu hố
chia rẽ khắp nước. Chính sách “kẻ thù của quốc gia” do Bismark đưa ra cũng để
lại ảnh hưởng độc hại lên chủ nghĩa dân tộc Đức, tạo ra một quan niệm cho rằng
nước Đức đang đối đầu với những đe dọa từ bên trong lẫn bên ngoài.
Hậu
quả là một nước Đức thống nhất về mặt chính trị nhưng ngày càng phân hóa về mặt
xã hội, với một tinh thần dân tộc chủ nghĩa lệch lạc, một đầu óc đa nghi về thù
trong giặc ngoài, và mức độ thất vọng và cực đoan ngày càng gia tăng (vì chính
phủ phi dân chủ này tỏ ra không đủ sức và không muốn đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi
của dân chúng). Vì thế, khi một cuộc chuyển đổi trọn vẹn qua thể chế dân chủ
cuối cùng đã diễn ra tiếp theo sau sự thất trận của Đức năm 1918, chế độ mới đã
thừa kế nhiều di sản băng hoại từ chế độ độc tài trước đó, kể cả việc cố tình
ngụy tạo trách nhiệm về chiến bại của Đức và tất cả các hậu quả chính trị, kinh
tế và tâm lý phát xuất từ đó.
Tại
Đức, cũng như tại Pháp và Ý, thậm chí dù cuộc thử nghiệm dân chủ hóa đầu tiên
có thất bại thảm hại đi nữa, nó vẫn để lại những hậu quả tích cực quan trọng về
lâu về dài. Khoảng một thế hệ sau, khi dân chủ có một cơ hội thứ hai, người ta
sẽ xây dựng lên đó nhiều cơ chế mới, và mọi thứ, từ đảng phái chính trị đến
chính quyền quốc gia và địa phương đến các tổ chức xã hội công dân, đều được
hồi phục từ đống tro tàn. Kinh nghiệm của Cộng hòa Weimar giúp các lãnh đạo
chính trị về sau đảm bảo rằng những sai lầm trong lịch sử sẽ không được lặp
lại, với những bài học có ảnh hưởng tốt đẹp lên việc soạn thảo các bản hiến
pháp, lên việc tổ chức các nhà nước phúc lợi (welfare states), cơ cấu các quan
hệ giữa công ty và nhân viên, và hành vi chính trị nói chung. Giai đoạn giữa
hai cuộc Thế chiến và hậu quả của nó hóa ra không phải là một bước vòng vo của
lịch sử, mà là một giai đoạn quan trọng trong cuộc tranh đấu về lâu về dài của
châu Âu để xây dựng các chế độ dân chủ tự do ổn định.
TÌNH
HÌNH SẼ TỐT ĐẸP HƠN
Những
trường hợp trên có gì để nói về Mùa Xuân Á Rập? Chúng cho ta thấy rằng những
vấn đề đang biểu hiện rất rõ nét tại Ai Cập và các nước đang chuyển mình khác
trong thế giới ngày nay là hoàn toàn bình thường và có thể tiên đoán được, rằng
những vấn đề này chủ yếu là lỗi lầm của các chế độ độc tài trước đó chứ không
phải là do các tác nhân dân chủ mới mẻ, và rằng sự cáo chung của chủ nghĩa độc
tài và việc thử nghiệm chế độ dân chủ chắc chắn về sau sẽ được nhìn nhận là
những bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển chính trị tại những nước
này, cho dù tình hình có trở nên tồi tệ trước khi rốt cuộc lại trở nên tốt đẹp
hơn.
Hầu
hết các nước dân chủ tự do ổn định hiện nay đều đã kinh qua một thời gian rất
khó khăn mới được như vậy. Thậm chí cả những trường hợp thường được đề cao như
những tấm gương dân chủ hóa sớm sủa và dễ dàng, như Anh và Mỹ, cũng kinh qua
nhiều vấn đề hơn người ta thường nhớ, với những cuộc nội chiến trên qui mô lớn
diễn ra trên con đường tiến tới dân chủ. Giống như những vấn đề này không có
nghĩa là thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể thực hiện đối với Bắc Mỹ hay
châu Âu, những vấn đề của các nước dân chủ Ả Rập non trẻ cũng không có nghĩa là
thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể xảy ra đối với Trung Đông. Xưa cũng
như nay, hầu hết các vấn đề mà những nước dân chủ phải đương đầu là được thừa
kế từ các chế độ trước đó. Thể chế dân chủ không nhất thiết tạo ra hay làm trầm
trọng thêm sự tranh chấp và nỗi thất vọng của cộng đồng và xã hội, nhưng nó cho
phép thái độ hoài nghi và nỗi niềm cay đắng mà người dân chất chứa dưới các chế
độ độc tài có cơ hội bộc lộ, thường thường với những hậu quả đáng tiếc. Nhưng
việc tiếc nuối sự ổn định dưới chế độ độc tài quả là một phản ứng sai lầm, vì
chính những căn bệnh có sẵn trong chủ nghĩa độc tài vốn đã giúp tạo ra những
vấn đề tiềm ẩn này từ đâu.
Lịch
sử cho chúng ta biết rằng các xã hội không thể vượt qua những vấn đề này trừ
phi và cho đến bao giờ họ đối đầu trực tiếp với chúng. Việc lật đổ một chế độ
độc tài đã trụ được một thời gian lâu dài không phải là điểm kết thúc của tiến
trình dân chủ hóa nhưng mới chỉ là bước khởi đầu. Thậm chí cả những cuộc thử
nghiệm dân chủ thất bại thông thường vẫn là những giai đoạn tích cực quan trọng
trong tiến trình phát triển chính trị của các nước, là những thời kỳ trong đó
những nước này bắt đầu loại bỏ các di sản xã hội, văn hoá, và kinh tế phản dân
chủ của quá khứ. Có quá nhiều nhà quan sát hiện nay đang lý giải các vấn đề và
những bước thụt lùi [tại Trung Đông] như là những dấu hiệu cho thấy rằng một
thành quả dân chủ ổn định sau cùng là điều không thể xảy ra. Nhưng những biến
cố bạo động và bi thảm như Cách mạng Pháp, sự sụp đổ của thể chế dân chủ tại Ý
cũng như tại Đức, và cuộc Nội chiến Mỹ không phải là những bằng chứng cho thấy
những nước này không thể tạo ra hoặc duy trì được các chế độ dân chủ tự do;
những biến cố lịch sử ấy là một phần rất quan trọng trong tiến trình theo đó
những nước này đã đạt được thành quả tốt đẹp như vậy.
Thái
độ bi quan khắp mọi nơi về Mùa Xuân Ả Rập gần như chắc chắn sẽ sai lầm. Hẳn
nhiên, Trung Đông có một hỗn hợp gồm nhiều thuộc tính văn hóa, lịch sử, và kinh
tế độc đáo. Nhưng mọi khu vực cũng đều như thế cả, vì thế không lý do gì chúng
ta lại tin chắc thế giới Ả Rập sẽ vĩnh viễn trở thành một ngoại lệ đối với qui
luật phát triển chính trị. Năm 2011 là hừng đông của một kỷ nguyên mới mẻ đầy
hứa hẹn cho toàn khu vực, và trong tương lai thời điểm này sẽ được coi là một
bước ngoặt lịch sử, cho dù xuôi về hạ lưu sẽ còn gặp nhiều thác ghềnh hung dữ.
Các đầu óc bảo thủ chỉ trích thể chế dân chủ chắc chắn sẽ sai lầm lần này, cũng
như họ đã từng sai lầm về tình hình các nước Pháp, Ý, Đức và mọi nước khác mà
họ từng cho là tốt đẹp hơn dưới các chế độ độc tài.
S.B.
Nguồn
bài gốc: http://www.foreignaffairs.com/articles/138479/sheri-berman/the-promise-of-the-arab-spring?page=show
Dịch
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment