Henri
Froment-Meurice (Bộ Ngoại Giao
Pháp)
Bùi Nguyễn (từ Paris)
Thứ 2,
28/1/2013, 2:0 GMT+7
Tuanvietnam.net
- Giữ
chức Vụ trưởng Vụ châu Á- châu Đại dương Bộ Ngoại giao Pháp từ 1969-1975, trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ trung gian giữa các bên đàm phán Hiệp định Paris, nhà
ngoại giao Pháp Henri Froment-Meurice nhìn lại những gì thực sự xảy ra từ hơn
40 năm trước.
Hoài
nghi
Ông
Henri Froment-Meurice: ...Năm 1969, tôi nhậm chức Vụ trưởng Vụ châu Á - Bộ
Ngoại giao Pháp. Khi đó thì các cuộc hội đàm đã được tiến hành ở Paris. Với
nước Pháp, vai trò thể hiện ở Hiệp định Paris vừa đơn giản, vừa phức tạp. Đơn
giản vì với tư cách là chủ nhà khi đó, chúng tôi có đủ các điều kiện thuận lợi.
Nước Pháp có quan hệ với tất cả các bên, với hai miền Bắc và Nam Việt Nam, dù
chưa phải là quan hệ cấp đại sứ nhưng chúng tôi có phái đoàn ngoại giao ở Hà
Nội và Lãnh sự quán ở Sài Gòn. Về mặt kỹ thuật, nước Pháp đơn giản là tạo được
những điều kiện thuận lợi nhất cho các bên đàm phán.
Nhưng
phức tạp, vì nước Pháp cũng có thể coi là một nhân tố trong đàm phán. Chúng tôi
đóng vai trung gian trong các cuộc thương lượng, đưa ý kiến bên này đến bên
kia, và đôi khi đưa ra cả các cam kết và ý tưởng.
Trong
các điều khoản của Hiệp định Paris được ký kết, có không ít đến từ các đề xuất
của Pháp. Trước đàm phán, miền Bắc Việt Nam cương quyết với điều kiện Mỹ rút
quân, Washington kiên quyết phải có ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam. Hiệp định
Paris đã thỏa mãn được cả hai điều đó, tức vừa có ngừng bắn, vừa có một giải
pháp chính trị sau khi Mỹ rút quân. Với nước Pháp, đó là điều rất đáng hài
lòng.
Với
cá nhân tôi, Hiệp định Paris mang lại cả sự hài lòng lẫn hoài nghi. Hài lòng vì
chiến tranh kết thúc. Cuộc chiến Việt Nam gây ra quá nhiều mệt mỏi, tạo ra sự
căng thẳng trong quan hệ quốc tế và để lại những thảm họa nhân đạo. Điều tốt
nhất, đó là kết thúc chiến tranh. Nhưng bên cạnh đó là sự hoài nghi là Hiệp định
này sẽ không được tôn trọng. Cảm giác đó giống như sau Hiệp định Geneve năm
1954.
Tôi nghĩ rằng với
nhiều người Việt Nam, Hiệp định Paris được coi là một thắng lợi bởi đã đuổi
được người Mỹ...
Anh
nói điều mà chính tôi lo ngại lúc nãy. Hà Nội muốn đàm phán và đã ký một Hiệp
định. Hiệp định này là một giải pháp chính trị, có việc thành lập một chính
quyền chung ở miền Nam, có giải pháp về lực lượng thứ 3, có việc tiến tới bầu
cử một cách hòa bình và dân chủ. Nhưng thực tế nó đã chỉ được coi như là một Hiệp
định đình chiến. Sự hoài nghi của tôi chính vì lẽ đó: một khi người Mỹ rời đi,
sẽ có rất ít khả năng hai miền Bắc, Nam Việt Nam không tiếp tục cuộc chiến.
Chúng ta tạm bỏ qua
tranh luận này. Tôi muốn hỏi là với tư cách là người trong cuộc, theo ông tại
sao cuộc đàm phán ở Paris kéo dài đến 5 năm trong khi ban đầu người ta nghĩ nó
có thể trong vài tháng, hoặc cùng lắm là 1-2 năm?
Các
bên đàm phán có những yêu cầu kiên quyết không nhượng bộ. Phía miền Bắc Việt
Nam quyết không chịu đàm phán với chính quyền Thiệu và đòi người Mỹ phải rút
nhưng với người Mỹ thì không có chuyện bỏ rơi Thiệu. Đó là điều căn bản. Ngoài
ra còn có những vấn đề khác, tuy ít quan trọng hơn. Đó là phải tìm kiếm một
giải pháp chính trị kiểu gì ở miền Nam Việt Nam. Trước hay sau Thiệu, có hay
không có Thiệu...
Bên
cạnh đó, vẫn còn một cuộc chiến tranh đang diễn ra mà khi đó không ai dám nói
trước rằng người Mỹ sẽ thua vì rõ ràng tương quan lực lượng lúc đó không
nghiêng về phía miền Bắc Việt Nam. Có các trận đánh trên các chiến trường,
nhưng người Mỹ có sự vượt trội về không quân, về các máy bay ném bom rất hiệu
quả đến tận những ngày cuối cùng của chiến tranh. Ngoài ra, có một bộ phận dân
chúng ở miền Nam Việt Nam hoàn toàn chưa sẵn sàng để chấp nhận chủ nghĩa cộng
sản, vì họ là những người "quốc gia".
Ở
đây tôi muốn đặt chủ đề này trong ngoặc kép. Ngày đó, tôi thực sự rất sốc khi
một vài đồng hương của tôi trong chính phủ và Quai d'Orsay (BNG Pháp), coi Hồ
Chí Minh là một người dân tộc chủ nghĩa tốt. Đúng, đó là một người dân tộc chủ
nghĩa nhưng cũng là một người cộng sản.
Không
thể quên hoàn cảnh quốc tế thời đó. Chúng ta đã có một cuộc chiến Triều Tiên,
giữa những người cộng sản và những người dân tộc, kết thúc là sự chia cắt hai
miền. Những người ở miền Nam Việt Nam
theo chủ nghĩa dân tộc, nhưng bị gọi đơn giản là "con rối của người
Mỹ".
Đúng là chính quyền miền Nam VN được Mỹ
hậu thuẫn nhưng cũng giống như miền Bắc được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ.
Ngày đó, với người Mỹ và cả chúng tôi,
cuộc chiến ở Đông Dương là một mặt trận để ngăn chủ nghĩa cộng sản lan ra toàn
châu Á. Không cần phải phủ nhận điều này bởi thời kỳ đó là Chiến tranh lạnh,
giữa phương Tây và một bên do Liên Xô cầm đầu. Cần phải đặt tất cả vào bối
cảnh.
Ông có viết trong
cuốn "Nhật ký châu Á" của mình rằng ông tin chiến thuật của người Mỹ
trong đàm phán Paris giống như những gì Henry Kissinger viết trên tờ
"Foreign Affairs" tháng 1/1969. Tôi xin trích lại: đàm phán, ít nhiều
trực tiếp, hoặc qua các "tín hiệu", với Hà Nội về việc đồng rút các
lực lượng, đàm phán đủ lâu để dần dần tạo được đối thoại giữa Sài Gòn và Mặt
trận về cấu trúc chính trị tương lai của miền Nam (Việt Nam). Thời gian là yếu
tố then chốt để Sài Gòn tự củng cố thực lực". Từ chi tiết này, thì việc
kéo dài đàm phán quá lâu cũng là ý của người Mỹ?
Không
phải chỉ có người Mỹ khiến đàm phán kéo dài, vì đàm phán có 4 bên chứ đâu riêng
người Mỹ. Nhưng tôi nhận thấy, có những giai đoạn cứng rắn giữa các bên khiến
đàm phán không tiến triển.
Trong
giai đoạn cuối của đàm phán, có một sự tắc nghẽn, đặc biệt là từ tháng 10/1972
đến tháng 01/1973. Tại sao Mỹ lại ném bom với cường độ ác liệt như thế? Ở đây
tôi nghĩ có sự cứng rắn quá mức từ các phía. Lúc đó tôi đã không hiểu được
những gì Hà Nội đang suy tính còn Sài Gòn thì rõ ràng là không hài lòng về việc
tương lai của mình chỉ được đàm phán thông qua Lê Đức Thọ và Kissinger. Nói
chung là đó là sự tắc nghẽn từ nhiều phía.
Theo ông biết, có
một sức ép nào không, như từ Trung Quốc chẳng hạn?
Có
thể, nhưng tôi hoàn toàn không biết chắc về điều này.
Trở lại với các giai
đoạn đàm phán. Ban đầu người Mỹ cương quyết không chấp nhận nói chuyện với Mặt
trận. Là người làm nhiệm vụ con thoi giữa các bên, ông nhận thấy sự thay đổi
của phía Mỹ bắt đầu từ thời điểm nào?
Thú
thực là tôi không nhớ chính xác ngày tháng, nhưng theo sự hiểu biết của tôi,
mọi thay đổi đều bắt đầu từ các cuộc hội đàm giữa Lê Đức Thọ và Kissinger.
Theo
như tôi biết, Kissinger chưa bao giờ gặp bà Nguyễn Thị Bình và cấp phó của bà
cũng không có tiếp xúc trực tiếp nào với các nhà ngoại giao Mỹ. Ban đầu, có sự
từ chối giữa các bên, Mỹ không chấp nhận đối thoại với Mặt trận, Mặt trận không
chấp nhận nói chuyện với Sài Gòn, nhưng cơ bản là thái độ từ phía chính quyền
ông Thiệu.
Ông
Thiệu không muốn có một bản Hiệp định được ký kết chỉ từ những đàm phán của Hà
Nội và Washington nên phản đối và gây sức ép. Việc Mỹ chấp nhận Mặt trận và Hà
Nội chấp nhận ông Thiệu vào bàn đàm phán là một sự nhượng bộ giữa các bên.
Điểm quan trọng nhất
trong Hiệp định Paris là việc rút quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Điều này cũng
nằm trong tầm nhìn và ý muốn của người Pháp, từ sau Tuyên bố Phnompenh của
Tướng De Gaulle rằng Mỹ cần có một lộ trình rút quân và Đông Dương cần một giải
pháp chính trị. Có sự thúc đẩy hay thuyết phục nào từ phía người Pháp với phía
Mỹ trong chuyện này không?
Tuyên
bố của tướng De Gaulle ở Phnompenh nói rằng Mỹ không thể chỉ dựa vào duy nhất
giải pháp quân sự mà còn cần cả giải pháp chính trị. Đó là quan điểm cốt lõi
của nước Pháp.
Các
diễn biến ở Việt Nam cho thấy là rất ít có khả năng chỉ có một giải pháp quân
sự đơn thuần từ bên này hay bên kia. Phía Mỹ cũng nhận ra rằng họ không thể
trông cậy vào duy nhất giải pháp quân sự. Họ không thể đưa đến 300 ngàn quân
vào Việt Nam để đẩy lùi quân đội miền Bắc ra khỏi miền Nam. Người Mỹ không thể
hy vọng vào một chiến thắng hoàn toàn về quân sự. Tình thế đó là một ngõ cụt
quân sự và Mỹ phải chấp nhận đàm phán.
Các
ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy chắc cũng nói với người Mỹ điều chúng tôi cũng nói,
tức dần dần phải tìm một giải pháp chính trị. Nhưng giải pháp chính trị kiểu
gì? Cơ chế và thiết chế chính trị kiểu gì? Lịch trình ra sao? Một chính phủ hay
hai chính phủ? Hai thành phần hay ba thành phần?...
Tôi
tin rằng nước Mỹ khi đó có sự thay đổi lớn trong nội bộ. Có những phái diều
hâu, phái ít diều hâu hơn. Nixon, tôi nghĩ, là nằm ở giữa. Cũng nên nhớ rằng
năm đó (11/1969) là cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ và Nixon cần phải tái cử. Vì thế,
người Mỹ cần phải có một kết quả hợp lý, một cái gì đó có thể coi là chiến
thắng. Khi Hiệp định Paris được ký kết thì họ đã thắng ở điểm này, tức Thiệu
vẫn ở đó trong khi Hà Nội thì muốn Thiệu phải ra đi trước đó.
Cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ, McNamara từng nhận định rằng "số cơ hội bỏ lỡ là không thể tin
được". Qua quan sát của ông trong từng đó năm, liệu có tồn tại thực sự
những thời điểm mà đàm phán có thể kết thúc sớm hơn, thay vì phải sau những
chiến dịch quân sự khốc liệt?
Thật
khó trả lời câu hỏi này, vì tôi, thậm chí là cả Tổng thống George Pompidou cũng
không biết được là Kissinger và Lê Đức Thọ bàn nhau những gì trong các cuộc gặp
bí mật. Những gì tôi biết rõ nhất đó là có rất nhiều lần đàm phán thất bại, các
đoàn đến rồi đi và chúng tôi làm trung gian nối lại.
Ở
đây, tôi muốn nói đến một sự thay đổi từ chính quan điểm của nước Pháp. Sau khi
tướng De Gaulle ra đi và George Pompidou lên làm Tổng thống, nước Pháp có một
sự thay đổi rõ rệt trong quan điểm liên quan đến Hiệp định Paris, đó là ít can
dự hơn. Tổng thống Pompidou không muốn chọc giận người Mỹ nữa. Chuyện Nixon
muốn kết thúc chiến tranh, muốn rút quân khỏi Việt Nam, tốt thôi, đó là chuyện
của họ, không nên gây phiền phức. Thái độ của nước Pháp đã là như thế cho đến
khi kết thúc đàm phán ở Paris.
Ông có thể nói rõ
hơn không?
Dưới
thời Pompidou, quan hệ Pháp-Mỹ được cải thiện, vì chúng tôi hiểu rằng người Mỹ
hoàn toàn không thích Tuyên bố Phnompenh của De Gaulle. Cá nhân tôi cũng bị sốc
với tuyên bố đó của tướng De Gaulle. Sao lại có chuyện tướng De Gaulle đòi
người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam và ấn định một thời hạn rút quân.
Đặt
giả thuyết là Tổng thống Mỹ đến Tunis hay Rabat trong thời kỳ chiến tranh của
Pháp ở Algeria và tuyên bố là "người Pháp cần phải biến khỏi đây". Có
sốc không? Hoàn toàn sốc.
Dĩ
nhiên, tuyên bố đó của tướng De Gaulle sẽ được các phong trào dân tộc và cộng
sản hoan nghênh, nhưng vấn đề là nó lại được coi như "Kinh thánh"
khiến các chính phủ kế tiếp tướng De Gaulle rất khó mà ít can dự vào chuyện ở
Đông Dương. Tất nhiên, điều chính xác đó là tuyên bố đó đã nói được rằng không
thể chỉ có một giải pháp quân sự mà cần phải có giải pháp chính trị.
Thời gian đã qua rất
lâu. Ông đã tiếp xúc với nhiều nhân vật lịch sử của cả miền Bắc lẫn miền Nam
Việt Nam. Cuối cùng, ấn tượng cá nhân ông giữ lại về họ là gì?
Tôi
thường xuyên xuống Choisy le Roi (nơi ở của phái đoàn VNDCCH), đã nhiều lần
tiếp xúc với các ông Xuân Thủy, Mai Văn Bộ, Võ Văn Sung, Hà Văn Lâu. Tôi cũng
một vài lần gặp ông Lê Đức Thọ. Tôi cũng tiếp xúc với các nhân vật lớn của miền
Nam, từ người trong chính quyền Sài Gòn cho đến những trí thức thuộc lực lượng
thứ 3 mà nước Pháp rất ủng hộ. Tất cả họ đều là những người thông minh và đáng
mến.
Những
nhân vật ở miền Bắc là những người rất chủ động, rất cách mạng. Điều đó cũng
không lạ gì vì trong quá khứ, người Pháp luôn nhìn nhận miền Bắc là mảnh đất
của chính trị, của những trí thức. Ở đó, nước Pháp từng đặt trường Viễn Đông
bác cổ và nhiều trường Đại học, trung học lớn. Những người miền Nam cởi mở hơn,
kinh tế và của cải ở đến từ miền Nam nhiều hơn. Sau tất cả, tôi luôn có sự nể
trọng rất lớn dành cho người Việt Nam.
+ Xin cảm ơn ông!
Bài phỏng vấn trực tiếp thể hiện phong cách và phân
tích của nhà ngoại giao Pháp Henri Froment-Meurice về cuộc đàm phán Paris và
các bên đàm phán. Những phân tích này đặt trong bối cảnh quốc tế của đàm phán
Hiệp định Paris hơn 40 năm trước.
Ông Henri Froment-Meurice sinh năm 1923, là nhà
ngoại giao kỳ cựu của Pháp. Ông từng làm Đại sứ Pháp tại Nhật năm 1952, Vụ
trưởng Vụ châu Á-châu Đại dương - Bộ Ngoại giao Pháp từ 1969-1975; Đại sứ Pháp
tại Nga từ 1979-1982; Đại sứ Pháp tại Đức từ 1982-1983. Ông là người trực tiếp
làm trung gian đàm phán giữa các phái đoàn VNDCCH, VNCH, Mặt trận và Mỹ trong
đàm phán Hiệp định Paris, trực tiếp làm việc dưới các đời Thủ tướng và Tổng
thống Pháp (De Gaulle, George Pompidou, Valery Giscard d'Estaing).
Bùi Nguyễn (từ Paris)
No comments:
Post a Comment