01:20:am 21/02/13
Tôi
xin được phép kể vài mẩu chuyện nhỏ về việc nhà cầm quyền Việt Nam thực thi sứ
mệnh bảo vệ nhân quyền cho một công dân như tôi:
Kết tội:
Tôi
bị bắt với một lý do rất… cười: tọa kháng tại nhà với biểu ngữ (được phía Cơ
quan An ninh điều tra kết luận rằng mang nội dung xấu): “Trường Sa – Hoàng Sa là của Việt Nam. Phản đối công hàm bán nước
ngày 14/9/1958 của Phạm VănĐồng”. Hơn 16 tháng sau ra tòa, tôi nhận bản án
4 năm tù giam, thêm 3 năm quản chế về cái gọi là tội “Tuyên truyền chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” mà không hề dính dáng đến việc “tọa
kháng”, hành vi trực tiếp được nhà cầm quyền làm lý cớ bắt bỏ tù.
Hai
chứng nhân “quan trọng” được đưa từ Thanh Hóa vào làm công cụ buộc tội bị cáo.
Ông Nhiểm, ông Kính trông tội nghiệp với bộ mặt méo mó, khắc khổ ngồi lọt thỏm,
bị bao vây giữa vô vàn những mật vụ dưới hàng ghế dự khán, thay vì ở vị trí
dành cho người làm chứng theo quy định một phiên tòa: “Nếu thời gian quay trở lại hoặc có cơ hội khác, tôi vẫn sẽ giúp đỡ
họ – những ngư dân Thanh Hóa – dù tôi biết trước có thể những con người này sẽ
quay lại kết tội tôi. Họ buộc phải làm thế. Và tôi sẵn sàng tha thứ cho họ.”
Tôi đã nói những lời này trước tòa dành cho những ngư dân Thanh Hóa tôi đã gặp
và giúp đỡ hồi cuối tháng hai năm 2008.
Trong
khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không tường thuật lại chuyến đi Thanh Hóa
cùng Ngô Quỳnh. Bạn đọc nào quan tâm và muốn tìm hiểu sự thật, xin tìm đọc bài
viết “Uất
ức – biển ta ơi! ” tôi viết năm 2008. Tôi tin rằng, nếu ai còn là
người Việt Nam thì không thể không đau xót trước việc đồng bào mình bị bắt giết
ngay trên lãnh hải của Tổ Quốc mình, cũng như không thể phủ nhận Trường Sa,
Hoàng Sa là của Việt Nam. Chỉ vì vạch trần và tố cáo một sự thật bị Đảng và Nhà
nước giấu nhẹm, chỉ vì đòi quyền lợi chính đáng cho những nạn nhân, ngư dân
Thanh Hóa mà tôi và Ngô Quỳnh đã bị tước mất tự do – dù là một thứ tự do đang
hấp hối.
Biệt giam:
Những
ngày đầu, tôi bị giam chung với các nữ tù hình sự khác. Trong cuộc vật lộn mưu
sinh, trở thành đủ lọai tội phạm (họ vẫn thường tự hào rằng phải rất bản lĩnh
mới dám thách thức pháp luật) thì sự xuất hiện của một cô gái nhỏ bé bị gán tội
“chống Nhà Nước…” là điều ngoài sức tưởng tượng. Từ ngạc nhiên, tò mò rồi thiện
cảm, chúng tôi trở nên gần gũi với nhau. Được vài hôm, những ánh mắt thân
thiện, cảm mến biến mất. Thay vào đó là thái độ dè dặt, lảng tránh pha chút sợ
sệt. Chính sách cô lập bắt đầu có hiệu quả!
Sắp
đến giờ cơm chiều. Tiếng ổ khóa vang lên chát chúa. Tiếp đó là giọng nói lạnh
tanh của quản giáo: “Phạm Thanh Nghiên chuẩn bị nội vụ!”. Mọi ánh mắt đổ dồn về
phía tôi, lo lắng, thương cảm, hoảng hốt: “Chết rồi, bị đi ép cung rồi”, “chị
ơi! Biệt giam rồi. ”, “khổ thân, người bé như cái kẹo, chịu sao nổi cháu ơi”.
Mỗi người góp một tí, từ chai mắm, gói lạc, ít bột canh, cuộn băng vệ sinh… tất
cả được đùm vào một túi ni-lông, ấn vội vào tay tôi. Tôi không đủ thời gian đùn
đẩy. Nhận cũng tốt. Đây sẽ là vốn liếng giúp tôi “cầm cự”, chờ đợi đến lúc nhận
được quà tiếp tế từ gia đình. Tôi không sợ biệt giam, không sợ bị ép cung. Tôi
sợ những ánh mắt thương cảm của họ. Những tình cảm rất con người mà vì một sức
ép đáng sợ nào đó, họ đã buộc phải thủ tiêu đi.
Tôi
bước ra cửa, không ngoái lại nhìn. Sau lưng, vài giọt nước mắt lặng lẽ rơi. Nhà
tù, thì ra vẫn còn chỗ cho tình thương yêu và lòng nhân ái.
Dẫn
tôi đi là người cán bộ tên C. Sau này tôi được nghe nhiều chuyện về ông ta, chủ
yếu thành tích làm giầu bất chính và đánh tù. Tôi cắp túi quần áo, chân đất đi
trên những con hẻm nhếch nhác vì mưa phùn, qua những dãy nhà giam lạnh ngắt và
cũ kỹ. Trong những bức tường lặng câm kia là những sự chờ đợi và tuyệt vọng.
Chờ đợi để được phán xử không theo cách của con người, rồi hiến mình cho sự khổ
ải và hao mòn trong các trại cải tạo.
Khu
giam giữ mới có khoảng sân khá rộng. Sau khi làm các thủ tục cần thiết, C giao
tôi cho đồng nghiệp. Tôi đi theo K, cảm giác như đang bị nuốt vào một đường
hầm. Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt, tôi mới thực sự thấy hết cái âm u của chốn
ngục tù. Chỉ khi dừng lại, tôi mới biết mình đang đứng trước một cánh cửa. Cửa
mở, hai đồng tử của tôi giãn ra: đây là nơi dành cho con người ư?
Cái
gọi là buồng giam rộng chừng 6m2. Hai bệ xi-măng đối diện nhau (chừa một lối đi
hẹp ở giữa, tù quen gọi là “xa lộ”) dùng làm chỗ nằm. Từ cửa đến chân bệ nằm
còn khoảng trống nho nhỏ để đồ ăn. Trong buồng không có nhà vệ sinh nên phải
dùng bô. Chỗ để bô cách chỗ để đồ ăn chừng 3 bước chân. Một trong hai bệ nằm có
gắn cố định một cùm sắt, dùng để cùm chân những người tù bị kỷ luật hoặc tử tù
chờ ngày thi hành án. Tôi vào sau L vài ngày, đương nhiên phải nằm chung với
cái cùm. L thường mắng tôi vì tội hay cho chân vào cùm. Bảo tôi không chịu
kiêng kỵ, có ngày bị cùm thật cũng nên. Hàng ngày tôi đi bộ dọc trên “xa lộ”,
coi như tập thể dục. Đoạn đường ngắn mấy bước chân, đi vài vòng phải nghỉ một
lần để khỏi chóng mặt.
Mỗi
ngày hai lần: sáng và chiều, công an mở cửa cho tù nhân ra ngoài làm vệ sinh cá
nhân và lấy cơm. Mỗi lần chừng 20 đến 30 phút. Hầu như ngày nào tôi cũng phải
đi cung nên mọi việc, từ giặt giũ, đổ bô, lấy cơm, rửa bát… L phải kiêm hết. Có
hôm, chưa làm vệ sinh xong, điều tra viên đã đứng đợi ngoài cửa. Chắc chỉ có tù
nhân lương tâm chúng tôi mới phải trải qua tình trạng ngồi bệ xí trong sự chờ
đợi và thúc giục của cả cai tù lẫn điều tra viên mà thôi. Gần 4 tháng biệt
giam, tôi phải đi cung hàng chục lần, chưa kể thời gian ở buồng chung hơn một
năm. Chuyện này xin được kể trong một dịp khác.
L
có tật xấu, đi ngoài vô tội vạ, không theo giờ giấc. Nhiều hôm cứ đóng cửa
buồng cô nàng mới đi, mỗi lần như thế lại chữa ngượng: “Em luyện mãi mà không
được, cứ nhìn thấy công an là nó lại thụt vào. Hình như c*t sợ công an chị ạ”.
Hai cái bô chứa đầy “sản phẩm” của L. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Đã thế, cô
nàng còn lên lớp tôi: “Chị phải uống thật nhiều nước mới tốt cho sức khỏe,
người đâu mà gầy đét, trông chán lắm”. Tôi bảo: “Có hai cái ngai vàng, mày ngự
cả hai, chị uống nhiều nước thì chứa vào đâu?”. Cô nàng nhe hàm răng ám khói
thuốc cười trừ. Nhìn L, tôi thấm thía hai câu thơ (được cho là của ông Hồ):
“Cửa tù khi mở không đau bụng, đau bụng thì không mở cửa tù”.
Cánh
cửa sắt, may quá có sáu lỗ thông hơi (to bằng quả trứng chim cút) – thứ duy
nhất làm chúng tôi tạm quên mình đang ở trong một cái hộp. Hàng ngày được ra
ngoài, tôi thường vãi cơm ra sân để dụ lũ chim sẻ đến. Qua sáu cái lỗ thông hơi
quý giá đó, tôi và L luân phiên nhau chiêm ngưỡng, ngắm nghía chúng. L ước:
“Giá biết bay như chúng, em sẽ bay về ôm hôn thằng Cu cho thật đã”. Rồi như
tiếc rẻ “Nhưng làm con chim bay được thì lại không lắc, không phê được. Làm
người như em, tuy tù tội nhưng được biết mùi đời. Sướng thân! Như chị thì
thiệt, chả biết đếch gì. Chán chết”. Tôi không thích tranh cãi với L những lúc
như thế. Lũ chim vô tâm, chúng nhặt nhạnh những hạt cơm cuối cùng rồi bay đi,
mặc kệ tôi ngẩn ngơ. Không có cách nào gọi chúng lại. Tôi tủi thân, đâm ra giận
chúng, hôm sau không vãi cơm cho chúng nữa. Theo thói quen, lũ chim bay đến ngơ
ngác, tìm kiếm rồi bỏ đi. Tôi buồn! Từ đó không dám tự trừng phạt mình nữa.
Một lần đi cung:
Một
vật gì giống như con rắn nằm lù lù giữa sân. Vừa nhận ra thứ đó dành cho mình,
một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Sau cái rùng mình, mặt tôi nóng ran, hai
thái dương giật liên tục. Không thể để cơn phẫn nộ được dịp bung ra. Tôi sẽ
luồn chân vào đó. Phải nếm trải hết mọi cay đắng của người tù. Tôi đứng im,
ngoan ngoãn cho K xiềng chân mình. Nét ái ngại lộ rõ trên gương mặt anh ta:
“Chị Nghiên đi chậm thôi, sẽ đỡ đau”. Tôi hít một hơi thở sâu chờ K mở cửa. Ánh
mắt tôi đập vào ánh mắt người điều tra viên. Dù cố tỏ ra tự nhiên, nhưng tôi
biết anh ta chứ không phải tôi đang bị chi phối bởi cái xiềng chân. Tôi không
đi chậm như lời khuyên của K. Bị thôi thúc bởi lòng kiêu hãnh, tôi bước thật
nhanh bất chấp hai vòng xích đập vào mắt cá chân đau điếng. Tôi không cho phép
anh ta có cơ hội thấy tôi trong bộ dạng chậm chạp và đáng thương. Chỉ thể hiện
ở bước đi thôi chưa đủ, tôi bông phèng:
- Này anh, giúp tôi một việc được không?
- Việc gì chị?
- Nhờ anh đăng ký với kỷ lục ghi-nét, công nhận tôi là người phụ nữ có cái lắc chân to và độc nhất thế giới nhé?
Bị bất ngờ, anh ta im lặng. Sau một hồi, tính háo thắng trỗi dậy, anh ta trả đũa:
- Nếu bây giờ tôi bắc thang cho chị trèo tường về, chị có về không?
- Sao nghiệp vụ anh kém thế?
- Gì cơ?
- Tôi bảo nghiệp vụ anh kém vì anh đi điều tra tôi mà không hiểu gì về tôi. Này nhé, tôi vào đây một cách đường hoàng thì cũng đường hoàng rời khỏi đây. Không phải các anh tùy tiện bắt rồi thả vô tội vạ là được.
- Này anh, giúp tôi một việc được không?
- Việc gì chị?
- Nhờ anh đăng ký với kỷ lục ghi-nét, công nhận tôi là người phụ nữ có cái lắc chân to và độc nhất thế giới nhé?
Bị bất ngờ, anh ta im lặng. Sau một hồi, tính háo thắng trỗi dậy, anh ta trả đũa:
- Nếu bây giờ tôi bắc thang cho chị trèo tường về, chị có về không?
- Sao nghiệp vụ anh kém thế?
- Gì cơ?
- Tôi bảo nghiệp vụ anh kém vì anh đi điều tra tôi mà không hiểu gì về tôi. Này nhé, tôi vào đây một cách đường hoàng thì cũng đường hoàng rời khỏi đây. Không phải các anh tùy tiện bắt rồi thả vô tội vạ là được.
Có
lẽ anh ta thấy tiếc về câu hỏi vừa rồi.
Một
cán bộ trực trại và một điều tra viên khác đã chầu sẵn ở buồng hỏi cung. Chờ
tôi ngồi xuống, trực trại rướn người qua mặt tôi, kéo thanh sắt vốn được bắt
vít cố định nơi tay vịn, khóa lại. Động tác rất dứt khoát với vẻ mặt rất nghiêm
trọng. Chắc đấy là thứ công cụ được phát minh ra để bảo vệ các nhân viên điều
tra khi hỏi cung những tên tội phạm thuộc diện đặc biệt nguy hiểm. Thế ra, tôi
được liệt vào loại “đặc biệt nguy hiểm” cơ đấy. Tôi quan sát việc liên quan đến
mình như một kẻ thực sự bị thuần phục. Xong việc, viên trực trại lui về đứng
phía sau tôi (chắc sẵn sàng tung đòn cứu đồng đội nếu đối tượng manh động). Hai
điều tra viên đặt hồ sơ lên bàn:
-
Chúng ta bắt đầu làm việc!
Tôi lơ đễnh nhìn lên trần nhà.
- Chúng ta làm việc thôi chị Nghiên.
- Anh bảo gì cơ?
Vẻ ngoan ngoãn lúc đầu của tôi khiến họ không chuẩn bị tâm lý đối phó cho sự phản công.
- Chúng ta vào việc…
- Làm gì có chuyện ấy. Các anh nghĩ tôi sẽ làm việc với các anh trong tình trạng này sao?
- Đây là quy định của…
- Là quy định của các anh thôi. Nguyên tắc của tôi là không làm việc với các anh trong tình trạng này.
Tôi lơ đễnh nhìn lên trần nhà.
- Chúng ta làm việc thôi chị Nghiên.
- Anh bảo gì cơ?
Vẻ ngoan ngoãn lúc đầu của tôi khiến họ không chuẩn bị tâm lý đối phó cho sự phản công.
- Chúng ta vào việc…
- Làm gì có chuyện ấy. Các anh nghĩ tôi sẽ làm việc với các anh trong tình trạng này sao?
- Đây là quy định của…
- Là quy định của các anh thôi. Nguyên tắc của tôi là không làm việc với các anh trong tình trạng này.
Hai
điều tra viên nhìn tôi chằm chằm. Tôi tiếp tục nhìn lên trần nhà, lưng dựa ra
sau, các ngón tay gõ gõ vào thanh sắt chắn ngang trước mặt, chân đung đưa khiến
cái xiềng cọ xuống nền nhà phát ra thứ âm thanh khô khốc, nghe đến sốt ruột.
Cuối cùng, một trong hai người điều tra viên phải ra hiệu cho trực trại mở
xiềng chân và thanh sắt chắn ngang ra.
Tôi
thôi nhìn lên trần nhà:
-
Đây sẽ là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cho phép các anh làm thế. Nếu việc
này còn tái diễn thì các anh sẽ chỉ nhận được một thứ duy nhất từ tôi, đó là sự
im lặng. Mong các anh nhớ cho.
Trở
về buồng giam, tôi mệt mỏi nằm vật xuống. Nhìn L với đôi mắt đỏ hoe, tôi đâm
cáu. Cô nàng mặc cho tôi mắng mỏ, cứ sấn vào xoa xoa bóp bóp chỗ đau cho tôi.
Tôi hắt hủi cô nàng để khỏi phải thương hại mình. Tôi nghĩ đến chú Nghĩa, đến
Ngô Quỳnh và các anh em khác bị bắt cùng đợt với tôi. Không biết họ bị đối xử
ra sao? Nhưng tôi tin, dù ở trong hoàn cảnh nào thì những người anh em ấy (sẽ
không cáu gắt bạn tù vô lối như tôi) mà sẽ ngạo nghễ và nở nụ cười nhân ái vì
nhà tù là sự lựa chọn “bất khả kháng”, là cánh cửa duy nhất để đến với tự do.
(viết
sau những ngày mới ra tù)
©
Phạm Thanh Nghiên
No comments:
Post a Comment