Tư duy thụt lùi của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn
Trúc Lam
02/12/2025
https://baotiengdan.com/2025/12/02/tu-duy-thut-lui-cua-trung-tuong-nguyen-thanh-tuan/
Hơn 35 năm trước, khi “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh ra đời, nhiều người nhận ra rằng, đây không phải là một cuốn tiểu thuyết để đọc “cho vui”, mà là một tiếng nói dám nhìn thẳng vào sự thật: Nỗi đau của chiến tranh. Ngày 30/11/2025, tác phẩm này được chọn là một trong 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật xuất sắc nhất sau năm 1975.
Đó là một tín hiệu đáng mừng, bởi văn học Việt Nam cuối cùng cũng đang bước ra khỏi lối viết một chiều, lối viết chỉ được phép kể chuyện chiến thắng mà không được nói về nỗi đau mất mát của con người.
Nhưng niềm vui ấy vừa lóe lên thì Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn, lập tức phản ứng dữ dội. Ông Tuấn đòi “thu hồi sự vinh danh”, đòi “rà soát nội dung”, thậm chí yêu cầu phải “xử lý” tác phẩm.
Kiểu phản ứng này nói lên một điều: Vẫn còn những người muốn kéo văn chương trở về thời chỉ được phép viết theo lệnh, chỉ được ca ngợi, mà không được đụng đến sự thật.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-2-326x420.jpeg
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn. Nguồn: Báo Chính phủ
“Nỗi buồn chiến tranh” kể đúng bản chất chiến tranh, chứ không “phản trắc” gì cả
Ở đâu cũng vậy, văn học về chiến tranh, nếu viết đúng sự thật thì rất buồn. Vì chiến tranh vốn không đẹp, không hào nhoáng, mà nó là máu, là nước mắt, là cái chết và là nỗi ám ảnh mà những người đã đi qua vẫn phải mang nó theo suốt đời.
“Nỗi buồn chiến tranh” được tôn vinh vì nó dám nói lên điều đó. Nhưng ông Tuấn lại cho rằng cuốn sách này “hạ thấp tính anh hùng”, “mang mùi phản trắc”. Thật ra, đây là cách hiểu sai giữa nghệ thuật và tuyên truyền. Một người lính đau đớn, hoang mang, bị ám ảnh sau chiến tranh — không phải là kẻ phản trắc. Họ là con người thật. Và chính họ, với nỗi đau thật, mới xứng đáng được tôn trọng.
Cái kiểu tư duy “chỉ được viết mặt sáng”, “chỉ được kể chiến công”, “không được kể về nỗi buồn” chính là lý do nhiều thế hệ lớn lên với một lịch sử méo mó: Chỉ thấy người hùng đứng trên bục, không thấy những thân thể nằm lại trên chiến trường.
Trong khi đó, thế giới từ lâu đã tôn trọng những tác phẩm viết về chiến tranh bằng nỗi đau thật. Tác phẩm “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque – một cựu binh Đức – đã mô tả chiến tranh bằng tất cả sự kinh hoàng của nó. Tác phẩm đó từng bị Đức Quốc xã cấm đoán, nhưng thời gian đã chứng minh nó là kiệt tác. Bộ phim mới nhất được chuyển thể từ tác phẩm này đã giành được 4 giải Oscar hồi năm 2023.
Và Bảo Ninh đã làm điều tương tự cho người lính Việt Nam. Vậy, có gì phản trắc ở việc nói lên nỗi đau thật? Nếu có chăng, chỉ là một số người… sợ sự thật.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-18.jpg
Nguyễn Thanh Tuấn
November 26 at 1:46 AM
Văn học sinh ra không phải để phục vụ tuyên giáo
Điều nguy hiểm trong phát biểu của Trung tướng Tuấn là ông vẫn xem văn học như một công cụ tuyên truyền, phải nghe theo một tiêu chuẩn chính trị nào đó.
Ông hỏi, vì sao Chính phủ lại trao giải? Ông cho rằng tác phẩm đó là “sự phản trắc”, rằng hai quan chức Chính phủ đang “tự diễn biến”. Và ông yêu cầu phải “rà soát”, “xử lý” …
Đó là tư duy của một thời mà văn học phải chịu đủ thứ “vòng kim cô”. Nhưng thời nay, người đọc không còn chấp nhận kiểu văn chương chỉ để ca ngợi. Văn học phải nói lên những điều mà con người thật sự cảm thấy.
Những người lính trở về từ chiến trường chắc chắn không cần đọc loại lịch sử chỉ toàn là hào quang, sáng chói. Họ cần được xã hội nhìn nhận nỗi đau tinh thần, những ám ảnh mà họ phải sống chung cả đời.
Nếu cứ bắt văn học chỉ được nói những điều đẹp đẽ, không được chạm vào bóng tối, thì hóa ra chúng ta đang che giấu chính những vết thương của người lính.
“Xét lại lịch sử” không phải là tội, mà là trách nhiệm
Ông Tuấn cho rằng, việc vinh danh “Nỗi buồn chiến tranh” là dấu hiệu của “tự diễn biến”, “xét lại lịch sử”. Nói như vậy là ông nhầm lẫn giữa xét lại sự thật với “xét lại để lật đổ”.
Không ai muốn lật đổ gì ở đây cả ông Tuấn ạ. Nhưng một dân tộc muốn trưởng thành thì phải dám hỏi lại quá khứ.
Những nước lớn trên thế giới đều trải qua quá trình tự soi lại chính mình: Nước Đức nhìn lại Thế chiến thứ hai. Nước Nhật nhìn lại chủ nghĩa quân phiệt. Và một cường quốc như Mỹ cũng đã và đang nhìn lại cuộc chiến Việt Nam.
Nhờ vậy mà họ trở nên mạnh mẽ hơn. Chỉ có những chế độ bất an, sợ dân trí, sợ sự thật, mới xem việc nhìn lại là điều nguy hiểm.
Sự thật mà lúc nào cũng giấu giấu giếm giếm, không dám cho dân biết, thì không phải là sự thật, mà đó chỉ là một bài diễn văn, lúc nào cũng đẹp đẽ, hào nhoáng!
Nỗi sợ của tư duy cũ: Sợ dân suy nghĩ, sợ mất quyền diễn giải lịch sử
Cách ông Tuấn phản ứng cho thấy một điều: Vẫn còn những người tin rằng chỉ họ mới có quyền quyết định người dân phải hiểu lịch sử thế nào, phải có cảm xúc ra sao.
Nhưng thời nay không phải là thời của vài chục năm trước, bởi người dân đã đọc được nhiều, tiếp cận được nhiều với thế giới qua mạng internet. Họ có vô số nguồn thông tin, cho nên không thể cứ tuyên truyền mãi những điều dối trá rồi nghĩ rằng dân đang tin mình. Không ai có thể chỉ tay, ra lệnh, bắt người dân phải “đọc cái này”, “không được đọc cái kia” rồi tự lừa dối mình rằng dân tin và làm theo.
“Nỗi buồn chiến tranh” có lẽ được nhiều người yêu mến vì nó nói tiếng nói của con người, không phải tiếng nói của khẩu hiệu. Và đó chính là điều làm cho những người quen “định hướng tư tưởng” như ông Tuấn, cảm thấy bất an.
Xã hội chỉ phát triển khi dám để văn học nói lên sự thật
Chuyện ông Tuấn phản đối “Nỗi buồn chiến tranh” không chỉ là chuyện một cuốn sách, mà đây là chuyện của hai cách nghĩ đang va vào nhau: Một bên muốn văn học trung thực, nhân bản, còn một bên chỉ muốn văn học ca ngợi, tô hồng. Một bên nhìn tương lai, còn một bên muốn níu kéo quá khứ. Một bên muốn tiến bộ, trong khi bên kia muốn đi thụt lùi.
Danh dự của một dân tộc không nằm ở việc che giấu nỗi đau, mà danh dự nằm ở chỗ dám đối diện với sự thật. Và nếu văn học nói lên sự thật lại bị xem như “đe doạ chế độ”, mọi người có thể nhận ra rằng cái chế độ này nó yếu ớt như thế nào?
Bảo vệ lịch sử không phải là bảo vệ vẻ đẹp của lịch sử, mà là phải bảo vệ sự thật của lịch sử. Bảo vệ chế độ không phải là từ chối mọi tiếng nói khác biệt. Và bảo vệ danh dự của một dân tộc không bao giờ đồng nghĩa với việc quay lưng với sự thật.
Việt Nam chỉ có thể đi tới nếu chế độ này dám để cho văn học, nghệ thuật và con người được quyền nói lên sự thật.
Cuối cùng, xin được nói thẳng với Trung tướng Tuấn rằng: Lịch sử không cần phải lúc nào cũng bóng loáng. Chế độ không cần phải “đẹp mọi lúc mọi nơi”. Nhưng con người thì cần phải được tôn trọng — ngay cả nỗi buồn của họ.
_______
Chú thích:
Cựu cục trưởng tuyên giáo Nguyễn Thanh Tuấn viết: “Khi tôi làm Cục trưởng tôi đã cố gắng đọc hết “Nỗi buồn chiến tranh”của Bảo Ninh và tôi đã thấy cái mùi phản trắc lồng vào tiểu thuyết để hạ thấp tính anh hùng của quân đội ta và đã nhen nhóm sự lật sử thông qua văn học nghệ thuật… Nay không hiểu sao Hội nhà văn Việt Nam đã bất chấp sự thật chọn một tác phẩm như vậy để vinh danh là tác phẩm tiêu biểu và càng không hiểu vì sao hai vị đại diện cho Chính phủ lại trao giải này cho ông Bảo Ninh? Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và ‘tự diễn biến’ đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta?”
--------------------
No comments:
Post a Comment