08/05/202
Hình
bìa sách “Cha Vô Danh”
Ba
mươi tháng Tư năm 1975 là dấu thời gian của những đổi đời, của vinh quang cùng
đau khổ. Nhiều câu chuyện đã được kể lại, nhiều hồi ức đã viết về đất nước với
chiến tranh quốc cộng và hệ lụy kéo dài.
“Cha
Vô Danh” [Nxb. L’Harmattan, France 2019, 532 trang] của Phạm Ngọc Lân ghi lại
biết bao đổi thay, thăng trầm của đất nước, nhưng có những nét riêng vì trải
dài gần ba phần tư thế kỷ từ đầu thập niên 1940 cho đến năm 2015 và qua những
nơi ít được nhắc đến như Ba Bình, Lạng Sơn, Bảo Lộc, Vincennes, Toulon, Fréjus,
Nouméa.
Những
ngày còn ở Việt Nam, trước 30/4/75, tác giả là một dược sĩ, là giáo sư ở Bảo Lộc,
ở trường Marie Curie, là sĩ quan trừ bị, giảng nghiệm viên của Đại học Dược
khoa và cũng là tay chơi đàn ghi ta cổ điển có tiếng, đã có những buổi trình diễn
tại Hội Việt Mỹ Sài Gòn và ở Cần Thơ, Đà Lạt, Nha Trang.
Mang
tâm hồn nghệ sĩ, Long đã tham gia sinh hoạt thanh niên ở trung tâm Đắc Lộ, sinh
hoạt văn nghệ với ca đoàn Trùng Dương, Nguồn Sống. Ông cũng biết chơi đàn bầu cổ
truyền.
Học
giỏi, ông được học bổng theo học bậc tiến sĩ ở Pháp và đang chờ ngày lên đường
thì chính thể Việt Nam Cộng hoà sụp đổ. Long ở lại cho đến năm 1980 thì rời Việt
Nam.
Nhân
vật chính Hoàng Kim Long là phản ánh con người thật ngoài đời của Phạm Ngọc
Lân, mà qua nhân dáng từng bị gọi là “tây lai ăn khoai cả vỏ”, là “OK Salem”,
là “Liên Xô, Liên Xô”.
Tác
giả kể lại nhiều về nền giáo dục Việt Nam Cộng hoà với hình ảnh trường lớp, với
những lần đi coi thi, chấm thi tú tài, qua những bổ nhiệm công bằng của vị tướng
quân y, qua việc ông được học bổng du học Pháp mà không phải “chạy chọt” gì cả,
hay qua việc vợ ông được tuyển vào làm xướng ngôn viên Đài Truyền Hình số 9 để
thấy chính quyền miền Nam công minh nên khó có tham nhũng.
Trong
khi sau năm 1975, cách tuyển sinh vào Đại học Dược khoa mà Long đã chứng kiến với
200 tuyển sinh, trong đó có đến 120 sinh viên là bộ đội, còn lại phần lớn là
gia đình con em cách mạng. Việc coi thi, chấm thi chỉ là phụ, còn đậu rớt thời
cộng sản không tuỳ thuộc vào khả năng mà qua lí lịch.
Tiếp
xúc với bộ đội, Long hiểu được rằng họ bị nhồi sọ về cuộc chiến tranh “chống Mỹ
cứu nước” và về đời sống trong miền Nam trước đó.
Trưa
ngày 30/4/75, sau khi đã có lệnh đầu hàng, tác giả chạy lòng vòng trung tâm
thành phố xem tình hình thế nào. Ông cho một bộ đội quá giang xe, nghe anh nói
“Tôi đi thẳng từ ngoài Bắc vào bằng tầu ngầm, đến Vũng Tầu tối hôm qua, sáng
nay đi xe về Sài Gòn.” thì Long hiểu được thói quen phét lác của người miền Bắc.
Sự
gian trá lừa lọc của người cộng sản còn thể hiện qua các thông báo kêu gọi
trình diện học tập, trong đó có Long vì ông là đại úy trừ bị dù công việc ngoài
đời là dược sĩ và dạy học.
Các
chính sách học tập cải tạo, Long ghi lại với đầy đủ qua các văn bản đã được nhà
nước ban hành, là một cú lừa đối với quân, cán, chính Việt Nam Cộng hoà.
Khi
mới vào trại, nghe cán bộ ra lệnh “ổn định chỗ ăn chỗ ở” làm tan biến niềm hy vọng
của Long sau khi học tập 10 ngày rồi sẽ được về. Với nhiều tù nhân 10 ngày đã
trở thành nhiều năm, hay hơn cả chục năm.
Thời
gian tập trung cải tạo cực khổ, thiếu thốn được ghi nhận qua hình ảnh tù nhân
tìm bắt con ếch bé tí cho có chút thịt sau những ngày lao động cực nhọc. Hay những
khi thèm đường thèm muối, cho đến chuyện thèm khát thông tin bao giờ được về.
Muốn có tin tức bên ngoài và thế giới tù nhân chỉ biết truyền nhau qua đài CBD,
khi tụ họp dưới bóng mát Cây Bã Đậu, mà hầu hết là những thông tin không thực,
nhưng nghe để nuôi hy vọng trong tù.
Sau
bốn tháng học tập, Long nhận được “Giấy giới thiệu tạm hoãn học tập tập trung”
ký ngày 28/10/1975 và cho về nhà. Ngôn ngữ của tiêu đề tờ giấy mà người cộng sản
dùng thật khó mà hiểu được người nhận giấy đó có còn phải học tập nữa hay
không.
Về
nhà, dù vợ chồng Long được lưu dụng tại cơ quan cũ nhưng đã phải chứng kiến những
đổi đời qua cuộc sống. Gia đình bán dần đồ đạc, bán cả chiếc xe vespa với nhiều
kỷ niệm của hai vợ chồng, phải dùng xe đạp cải tiến để chở vợ và hai con nhỏ,
cho đến một hôm đang đi trên cầu Phan Thanh Giản thì bánh xe gãy khiến cả gia
đình té lăn xuống đường.
Chính
sách đổi tiền đã làm người dân nghèo đi và đời sống kinh tế khó khăn làm lộ ra
những con người tham lam trong xã hội mới.
Trở
lại làm việc tại cơ quan cũ, Long chứng kiến những chính sách kiểm soát chặt chẽ
của nhà nước, từ việc đi lại giữa các tỉnh thành phải có giấy phép, khai báo tạm
vắng tạm trú, cảnh chờ mua vé xe đò, cảnh ngăn sông cấm chợ khiến cho người dân
buôn bán chui bằng nhiều cách.
Chủ
trương mới là không cần phải “rành nghề” miễn là “cách mạng” khiến nhiều thành
phần trí thức tìm đường vượt biển. Ngay cả một đồng nghiệp trong ban giảng dạy,
một người “thân cách mạng”, nhưng lại là người đầu tiên trốn đi vượt biển thành
công năm 1977. Gia đình bên vợ tác giả cũng có hai người vượt biển được định cư
tại Hoa Kỳ.
Biết
bao người đã bỏ nước ra đi, nhưng không phải ai cũng đến được bến bờ. Long kể
có một người bạn, đi học tập 4 năm chưa được về, vợ lên thăm lần cuối trước khi
đưa hai con, cùng em gái vượt biển rồi mất tích luôn.
Không
có tương lai cho các con, nhưng ông không thể ra đi bằng đường vượt biển. Tháng
7 năm 1980 gia đình được qua Pháp, vì Long là con lai có quốc tịch Pháp.
Gần
hai thập niên của Việt Nam Cộng Hoà – theo tác giả ghi nhận chi tiết là được 18
năm, 6 tháng và 4 ngày kể từ khi Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hoà ra đời ngày 26/10/1955
cho đến ngày 30/4/1975 – và năm năm dưới chế độ cộng sản là quãng thời gian
chính trong tác phẩm và được tác giả phác hoạ lên với những nét tương phản qua
đời sống, qua sinh hoạt chính trị, giáo dục, xã hội.
Tác
giả còn viết gia phả của mình từ những năm 1940 với gốc ở làng Hà Hồi, rồi những
lần tản cư, hồi cư, dinh tê theo dòng lịch sử từ bắc vào nam rồi lại ra bắc.
Những
ngôi trường đã học qua được tác giả ghi lại lịch sử với chi tiết, từ St. Marie ở
Hà Nội, vào Colette trong Sài Gòn rồi lên Adran ở Đà Lạt, trở lại Sài Gòn với
Marie Curie, Gia Long, Đại học Dược khoa là những nơi đã để lại cho tác giả và
người bạn đời nhiều kỷ niệm dễ thương, với những ỷ niệm thời thơ ấu như chơi
năm mười, chơ u mọi, chơi đánh khăng, bắn bi, với kỷ niệm của yêu đương, những
hẹn hò tình tứ lãng mạn.
Cuộc
đời của mẹ, là nhân vật chính, rồi đến cha dượng và sau này là các em, cùng mẹ
khác cha, gồm 8 em trai vài 4 em gái đều phản ánh trong tác phẩm.
Thời
chiến tranh, em trai có đứa trốn lính bị bắt đưa ra Sư đoàn 3 mới thành lập ở
tuyến đầu quê hương. Có đứa tử trận giữa tháng 3/75 khi chỉ có vợ chồng Long
cùng một em gái lên nhận xác để vội vàng chôn ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà.
Vì tình hình chiến sự khi đó nên mẹ cũng không thể từ Bảo Lộc về chôn con được.
Sau
75 có đứa chết vì sốt rét sau những ngày đi thực tế lao động. Có đứa đạp mìn
còn sót lại sau chiến tranh. Một em khác mất tích từ lâu rồi bất ngờ bắt được
liên lạc.
Mỗi
giai đoạn lịch sử với những biến cố quan trọng tác giả đều nhắc tới, qua những
trang nhật ký hay theo lời kể của người trong gia tộc, xen vào những nét văn
hoá như cách thắp nhang cho người quá cố, hình ảnh cối xay gạo, cách làm bánh
cuốn, làm sương sâm.
Chuyện
sinh ngày tây, ngày ta khi làm giấy thế vì khai sinh cho tác giả, hay ngày cưới
của ông trong khi đang tham gia huấn luyện quân sự cũng là điều gây thích thú
cho người đọc.
“Cha
Vô Danh” còn là nỗ lực đi tìm kiếm tung tích người cha sinh ra mình, từ những
văn khố, những nghĩa trang quân đội ở Pháp và qua những chuyến trở về Việt Nam.
Tác
giả lần theo con đường của mẹ mình, một người thợ may năm 1944 đi xe lửa từ Sài
Gòn ra Nha Trang, rồi ra đảo Ba Bình, Cam Ranh. Bà ở đó 17 ngày trong một cuộc
tình ngắn ngủi với một sĩ quan Pháp, để rồi tác giả ra đời mà không có tên cha
trong giấy khai sinh.
Long
đã đến được bến tàu ở Cam Ranh trong một chiều lộng gió, nhưng không được ra đảo
vì công an coi ông là người nước ngoài, không còn là người Việt.
Trong
chuyến đi Hà Nội về quê tìm gốc gia đình, tưởng không ra, nhưng may mắn từ quán
nước bên đường đã dẫn đến căn nhà của tổ tiên.
Câu
chuyện đi tìm cha nhiều lúc đem đến rắc rối cho tác giả khi phải làm việc với
công an và có lúc đã bị đe dọa truy tố theo điều 88 Luật Hình sự, vì những gì
tác giả đã viết ở hải ngoại, vì những quan hệ với một nhóm trí thức phản kháng
trong nước.
“Cha
Vô Danh” có văn phong kể chuyện nhẹ nhàng, chầm chậm và đưa người đọc từ nơi
này này sang chỗ kia, nhiều khi chuyển đổi nhân vật bất ngờ, tạo ra những ngạc
nhiên thích thú.
Tác
phẩm còn đem đến cho độc giả một nguồn sử liệu quí giá, với những dẫn chứng và
148 chú thích ở cuối sách. Cùng một kết thúc hết sức ngạc nhiên.
*Ghi chú: Nxb. L’Harmattan năm
2016 đã phát hành bản tiếng Pháp “De Père Inconnu”. Nhưng theo lời tác giả thì
“Cha Vô Danh” không phải là bản dịch từ tiếng Pháp mà là “một cuốn sách viết bằng
tiếng Việt bởi một người Việt cho người Việt đọc.”
No comments:
Post a Comment