Giáp Văn Dương
04/02/2017
Lãnh Đạo & Cầm
Quyền: Lãnh đạo là vai trò của một lực lượng mà ngay cả khi không cầm quyền
cũng có khả năng dẫn dắt một đất nước, một cộng đồng đi theo những giá trị tiến
bộ nhất. Muốn vậy, lực lượng đó phải là tinh hoa, tiêu biểu (trong một quốc
gia, trong một cộng đồng) cả về nhân sự lẫn đường lối. Một lực lượng mà chỉ có
thể lái một đất nước, một cộng đồng đi theo hướng mình muốn bằng quyền lực thì
không phải là lãnh đạo mà là cầm quyền. Đảng CSVN đang là một đảng cầm quyền chứ
không còn là một đảng có vai trò lãnh đạo.
Phát hiện của Huy Đức
đúng nhưng hơi muộn. Hãy xem trên BVN có bao giờ chúng tôi gọi mấy ông ngồi
chót vót trên đầu chúng ta là lãnh đạo đâu. Chúng tôi chỉ gọi đó là "các vị
cầm chịch đất nước", "các vị đứng đầu đất nước", "các nhà cầm
quyền". Thế cũng là rất tôn trọng họ, nhưng không thể gọi họ cái mà họ
không hề có được.
Bài viết [của Giáp
Văn Dương] rất hay. Tuy nhiên cũng như stt "Lãnh đạo & cầm quyền"
của Huy Đức, bài viết này chỉ hay với chúng ta. Với các quan to nhỏ nước nhà nó
chẳng có ích gì. Đây là còm của tui ở fb Giáp Văn Dương:
"Theo fb Lãng
Anh, năm 2012 Tập Cận Bình từng nói: "Chúng ta đang phải dựa vào một đội
ngũ tội phạm để cai trị đất nước". Ông ta đã rất thành thực. Ở Việt Nam
hình ảnh bầy sâu của ông Trương Tấn Sang cũng "thành thực" tương tự
như điều ông Tập Cận Bình đã nói. Vậy thì stt của Huy Đức và bài viết rất hay
này của GVD sẽ không có ý nghĩa gì hết. Không ai đi bàn chuyện phải quấy với bầy
sây hay tội phạm cả, GVD ạ.
P/S: Lại bàn chuyện
chính trị, he he!
"Chúng ta đang
phải dựa vào một đội ngũ tội phạm để cai trị đất nước" - câu này bên Tàu
nhưng rất là VN, ở ta thì đụng tới lĩnh vực nào cũng thấy tội phạm, cho nên xử
lý những trường hợp bị lộ gây phản cảm cho dân chúng, có cảm giác là tội phạm
đã liên kết để sống dựa vào nhau.
Cần lưu ý là có tồn tại
sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền. Nếu như trong quá khứ, một
người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì họ được người dân tin tưởng
trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp ứng được mối
quan tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo và bản thân họ
là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai đó, mà thường gặp nhất là lãnh đạo của
các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau đó khi sứ mệnh
ban đầu đã hoàn tất, họ sẽ không còn là nhà lãnh đạo nữa, mà đã chuyển hóa
thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực của mình, và
dùng hào quang của quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương lai
mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng mối quan tâm của chính họ và một nhóm người có
lợi ích liên quan chứ không phải là một tương lai chung đáp ứng mối quan tâm của
tất cả mọi người. Trong trường hợp ấy, người đó hoặc nhóm người đó đích thị là
một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo.
[... ...]
Với Việt Nam, câu
chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là câu chuyện thời sự. Chúng ta đã từng có nhà
lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng ta thiếu các nhà lãnh đạo như hiện giờ. Nhìn
đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta
có tiếp tục cần các nhà cầm quyền? Hiển nhiên là không, chúng ta cần các nhà
lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm quyền. Nhưng bằng cách nào để có được các
nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một môi trường để cho nhà lãnh đạo xuất hiện
và thực hiện công việc của mình?
Giáp
Văn Dương
-----------------------
Trong
những năm học tập và làm việc ở nước ngoài, một trong những điều tôi luôn lưu ý
tìm hiểu là: Vì sao họ lại phát triển, còn mình thì không?
Tôi
nhận ra rằng, thoạt nhìn thì câu trả lời có thể là do thể chế, hoặc do văn hóa,
hoặc do những đặc thù về vị trí địa lý. Nhưng khi suy nghĩ kỹ hơn thì thấy rằng,
phía sau tất cả các yếu tố này, bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của nhà lãnh
đạo xuất sắc. Có thể nhà lãnh đạo chính là người tạo ra các yếu tố này, hoặc
chính là người đã khai thác hiệu quả các yếu tố này, để dẫn dắt sự phát triển của
dân tộc họ. Ngay cả khi không có một nhà lãnh đạo xuất sắc hiện diện ở ngay
trong hiện tại, thì thể chế ưu việt và nền văn hóa tích cực do những nhà lãnh đạo
tiền bối của họ kiến tạo ra vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt. Khi đó, chính những
nhà lãnh đạo quá cố đó, vẫn đang tiếp tục lãnh đạo gián tiếp đất nước của họ
thông qua các di sản về thể chế và văn hóa mà họ đã gây dựng.
Như
vậy để thấy, lãnh đạo chính là yếu tố mang tính quyết định đến sự phát triển của
một tổ chức, và rộng hơn là của cả một dân tộc. Đặc biệt là trong các thời khắc
khó khăn thì vai trò của nhà lãnh đạo lại càng lớn, do phải đương đầu với những
tình huống chưa từng gặp qua và đòi hỏi phải ra được những quyết định chính xác
mang tính sống còn. Vì thế có thể nói, giới hạn của nhà lãnh đạo chính là giới
hạn phát triển của tổ chức mà người đó lãnh đạo, và giới hạn phát triển của một
dân tộc, cũng bị quy định bởi chính giới hạn của những người đang lãnh đạo dân
tộc đó. Nói cách khác, lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát
triển hoặc kìm hãm đất nước. Lựa chọn lãnh đạo đất nước chính là lựa chọn vận mệnh
của cả dân tộc.
Trong
một thế giới nhiều biến động, vai trò của nhà lãnh đạo lại càng nổi bật và trở
nên quan trọng. Vì vai trò của nhà lãnh đạo là để chèo lái quốc gia trong những
hoàn cảnh khó khăn hoặc bất định hoặc đòi hỏi sự bứt phá. Nếu không có khó
khăn, không có bất định, hoặc không đòi hỏi sự bứt phá thì khi đó chỉ cần một
nhà quản lý có năng lực để đảm bảo mọi việc diễn ra theo cách bình thường, chứ
không cần đến một nhà lãnh đạo đích thực. Vì nhà quản lý sẽ tập trung vào việc
thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, còn nhà lãnh đạo sẽ thiết kế và hiện thực hóa
một tương lai hoàn toàn mới, một sự phát triển mang tính bứt phá, hoặc một chuyển
hướng mang tính chiến lược có ảnh hưởng tốt đẹp cho nhiều thế hệ kế tiếp.
Vì
quan trọng như vậy, nên lãnh đạo bao giờ cũng là một quan tâm của mọi giới trong
xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi nước trên thế giới. Với hoàn cảnh đặc
thù của Việt Nam, thì chất lượng lãnh đạo lại càng quan trọng, khi phần lớn người
dân Việt Nam không được trực tiếp lựa chọn lãnh đạo tối cao của mình.
Thực
tế phát triển của các quốc gia cho thấy, đất nước nào lãnh đạo anh minh thì dân
tộc đó cất cánh chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể chứng
nghiệm trong một đời người, mà Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những ví dụ
nhãn tiền, còn dân tộc nào có lãnh đạo u mê thì dân tộc đó chìm trong nghèo hèn
hàng thế kỷ, không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, thậm chí, ngay sự tồn tại
của mình cũng không chắc được đảm bảo.
Từ
trong sâu thẳm, nhà lãnh đạo bao giờ cũng mang trong mình những sứ mệnh lớn hơn
bản thân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Đó có thể là sứ mệnh giải phóng dân
tộc, hoặc tạo ra một sự phát triển vượt bậc cho dân tộc, hoặc giải phóng con
người ra khỏi u mê giáo điều. Chính sứ mệnh lớn lao đó chứ không phải những kiến
thức chuyên môn, hoặc bè phái cấu kết, làm lên tầm vóc của nhà lãnh đạo, và tạo
ra sự phát triển cho cả dân tộc mà họ lãnh đạo.
Chính
nhà lãnh đạo đó sẽ là người thiết kế ra những tương lai mới, và thuyết phục được
toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, để sau đó huy động toàn lực để hiện thực
hóa tương lai đó. Thông qua đó, nhà lãnh đạo nhận được sự tin tưởng, và bản
thân sự lãnh đạo, như một sự ban trao từ phía người dân. Nếu người được bầu chọn
không có khả năng thiết kế ra một tương lai như vậy, và không có khả năng thuyết
phục toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, và không thể tập hợp được đủ người
tài và nguồn lực để hiện thực hóa tương lai đó, thì đó là một sự lựa chọn nhầm
lẫn. Trong trường hợp đó, cùng lắm chúng ta cũng chỉ có một nhà cầm quyền, chứ
không phải là một nhà lãnh đạo.
Vậy
nên, muốn phát triển, dù là một tổ chức hay một đất nước, thì điều kiện tiên
quyết là tổ chức hoặc đất nước đó phải lựa chọn được một nhà lãnh đạo tối cao
xuất chúng. Đó phải là một nhà lãnh đạo đích thực, chứ không phải là một nhà cầm
quyền, dù về mặt hình thức, lãnh đạo và cầm quyền có nhiều nét tương đồng.
Lưu
ý rằng, sự lãnh đạo và sự tin tưởng đích thực, bản thân nó không tự xuất hiện với
nhà lãnh đạo, cũng không thể giành giật được, mà chỉ có thể có được thông qua sự
ban trao từ phía những người được lãnh đạo. Nếu không được ban trao, sự lãnh đạo
chỉ có thể gọi tên là sự tiếm quyền. Vì thế, nhà lãnh đạo chỉ xuất hiện khi việc
bầu cử được diễn ra trong dân chủ, công khai và minh bạch.
Giờ
vừa sang năm 2016, Việt Nam dự kiến sẽ sớm hội nhập sâu rộng với thế giới sau
khi hiệp định TTP được ký kết. Nhu cầu phát triển bứt phá của Việt Nam cũng
đang là yêu cầu bức thiết, khi chỉ còn khoảng 10 năm nữa thôi là thời kỳ dân số
vàng để phát triển sẽ qua đi và bẫy thu nhập trung bình thì đang giăng ra trước
mắt. Trong hoàn cảnh đó, một nhà lãnh đạo đích thực là điều mà Việt Nam cần nhất.
Nhưng
nhìn quanh thấy thời khắc chuyển giao lãnh đạo đang diễn ra rầm rộ, mà câu chuyện
về lãnh đạo vẫn chưa được bàn thảo đầy đủ. Ngoài việc bàn tán ai đi ai ở, với
hàm ý ai sẽ nắm quyền lực, thì câu hỏi cơ bản: lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh
đạo khác với cầm quyền như thế nào, lại không thấy ai bàn.
Vậy
tại sao lại không đi thẳng vào câu hỏi này: Lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo
khác cầm quyền ở điểm nào?
Khi
đã chọn nhìn thẳng vào những câu hỏi căn cốt như thế, thì cách hiểu về lãnh đạo
và lựa chọn lãnh đạo cũng sẽ khác đi. Ai đi ai ở không phải là quan trọng nhất,
mà ai xứng đáng là lãnh đạo và làm sao để có được người xứng đáng đó mới là điều
cốt yếu.
Bài
viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ chỉ một điểm này. Những nội dung khác, sẽ bàn
trong các dịp thuận tiện khác.
Trước
hết cần lưu ý, vì lãnh đạo thường gắn liền với quyền lực và chức vị, đặc biệt
là trong lĩnh vực chính trị, nên khi nói đến lãnh đạo, người ta sẽ liên hệ ngay
đến chức vị và quyền lực. Do đó, lãnh đạo thường bị đồng nhất với cầm quyền.
Nhưng lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau về bản chất. Nhà lãnh đạo không nhất
thiết phải có chức vị và phải cầm quyền, còn người cầm quyền, dù có cả chức vị
đi theo, cũng chưa chắc đã là nhà lãnh đạo. Chính sự nhầm lẫn về lãnh đạo và cầm
quyền đã gây ra những cuộc đua nắm giữ quyền lực không phải cách, dẫn đến việc
tạo ra các nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì các nhà lãnh đạo đích thực.
Và quyền lực trong trường hợp này trở thành mục tiêu của nhà cầm quyền tiếm
danh lãnh đạo, thay vì là công cụ của của nhà lãnh đạo đích thực.
Vậy
sự khác biệt đó là gì?
Cách
thức đạt được quyền lực
Điểm
khác biệt đầu tiên là khác biệt trong cách thức đến với quyền lực. Đây là điểm
khác biệt mấu chốt, dẫn đến các cách hành xử khác nhau của nhà lãnh đạo đích thực
và nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo. Với nhà lãnh đạo chính trị, quyền lực và rộng
hơn là sự lãnh đạo, phải được ban trao từ phía người dân trong sự tin tưởng và
tự nguyện. Còn với nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo, quyền lực này có thể đến
được thông qua sắp đặt hoặc chiếm đoạt.
Vì
sự lãnh đạo là được ban trao từ phía người dân, nên khi thấy nhà lãnh đạo không
đáp ứng được kỳ vọng của mình, người dân có quyền và có cơ chế để lấy lại sự
ban trao này. Vì thế, lãnh đạo bao giờ cũng gắn liền với nhiệm kỳ. Còn cầm quyền
thì ngược lại, quyền lực đến với nhà cầm quyền không bởi sự ban trao, mà qua sắp
xếp hoặc chiếm đoạt, nên về bản chất là không có nhiệm kỳ, và nhân dân bị ngăn
cản để lấy lại quyền lực lẽ ra sẽ thuộc về nhà lãnh đạo do nhân dân lựa chọn.
Vì lẽ đó, với nhà lãnh đạo thì quyền lực chỉ là một phương tiện để thực hiện
công việc lãnh đạo của mình. Còn với nhà cầm quyền, quyền lực trở thành mục
đích.
Lưu
ý rằng, sự ban trao lãnh đạo này chỉ có thể được thực hiện thông qua bầu cử dân
chủ và minh bạch. Điều đó có nghĩa, bầu cử để lựa chọn nhà lãnh đạo là quan trọng,
nhưng cách thức bầu cử còn quan trọng hơn. Chỉ thông qua bầu cử dân chủ, nhà
lãnh đạo mới được ban trao quyền lực. Còn bất kỳ hình thức ban trao nào khác,
dù nhân danh bất cứ điều gì hoặc bất cứ giá trị nào, như dòng dõi của các hoàng
gia, hay đức tin của các tôn giáo, hay đề cử riêng của các đảng phái, hay bất cứ
một nhân danh nào khác ngoài lá phiếu của người dân, thì đó không phải là một sự
ban trao đích thực, mà thực chất là một sự sắp xếp. Lãnh đạo có được thông qua
sắp xếp, dù theo chủ ý nhất thời của một thế lực nào đó, hoặc là sự mở rộng tự
nhiên của truyền thống, thì cùng lắm cũng chỉ có thể là nhà cầm quyền. Còn nếu
không thì sẽ rơi vào trạng thái bù nhìn cho các thế lực hậu trường giật dây.
Đó
là lý do vì sao ở các quốc gia quân chủ lập hiến, khi ngôi vua được kế thừa
theo kiểu cha truyền con nối, thì ngôi vua đó chỉ có giá trị biểu trưng về mặt văn
hóa và truyền thống, đóng vai trò như một kết nối trong khối đoàn kết của toàn
dân, còn nhà lãnh đạo thực sự đang dẫn dắt quốc gia đó vẫn phải được bầu theo
nhiệm kỳ để thông qua đó, nhà lãnh đạo được ban trao quyền lực.
Bản
chất công việc lãnh đạo
Điểm
khác biệt thứ hai là khác biệt trong công việc thực sự của nhà lãnh đạo và nhà
cầm quyền. Với nhà lãnh đạo, công việc của anh ta là thiết kế một tương lai
chung cho tất cả mọi người, thuyết phục được mọi người tin tưởng vào tương lai
đó, và cuối cùng là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó. Anh ta được ban
trao quyền lực, và rộng hơn là ban trao sự lãnh đạo, để thực hiện công việc thiết
kế tương lai và hiện thực hóa tương lai này. Thiết kế tương lai chung, trước hết
dưới dạng các viễn cảnh được mô tả rõ ràng và thuyết phục, và sau đó là tìm mọi
cách để hiện thực hóa tương lai đó, là công việc chủ chốt của nhà lãnh đạo.
Nhưng
với nhà cầm quyền, vì quyền lực và vị trí của họ không đến thông qua sự ban
trao tự nguyện của người dân, công việc của nhà cầm quyền sẽ chỉ tập trung vào
việc giữ cho bằng được quyền lực và vị trí của mình. Họ sẽ tìm mọi cách hợp thức
hóa việc nắm giữ quyền lực và vị trí này, thông qua mọi phương tiện, không chỉ
tuyên truyền mà còn cả đe dọa và đàn áp.
Ngay
cả khi nhà cầm quyền chủ ý thiết kế và hiện thực hóa một tương lai nào đó, thì
tương lai này vẫn sẽ bị giới hạn bởi điều kiện tiên quyết là không ảnh hưởng đến
quyền lực và vị trí anh ta đang nắm giữ. Vì thế, tương lai đó không bao giờ là
tương lai tốt nhất có thể có, và chỉ có thể đáp ứng được mối quan tâm của một
nhóm người có lợi ích liên quan, chứ không phải của tất cả mọi người, trừ phi
nhà cầm quyền tự chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo.
Miền
thời gian lưu trú
Điểm
khác biệt thứ ba là miền thời gian mà nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền đến sống và
làm việc ở trong đó. Với nhà lãnh đạo, miền thời gian mà họ sống và làm việc là
tương lai của chính dân tộc họ, và họ phải là hiện thân của chính tương lai đó.
Vì thế, họ phải là người có tầm nhìn, phải có khả năng nhìn thấy tương lai, từ
đó thiết kế ra một tương lai tốt hơn cho tất cả mọi người và tạo động lực để tất
cả mọi người cùng hiện thực hóa tương lai đó. Nhà lãnh đạo tìm thấy bản thân
mình và tính chính danh trong công việc của mình ở trong tương lai. Nhưng tương
lai bao giờ cũng bất định, vì lẽ đó, nhà lãnh đạo đòi hỏi không chỉ giỏi về
chuyên môn, mà quan trọng trước hết là bản lĩnh dám đối mặt với sự thay đổi,
dám ra những quyết sách lớn và dám chịu trách nhiệm với những quyết sách lớn
đó. Nhưng các nội dung này lại phải đặt trong bối cảnh của sự ban trao quyền
lãnh đạo từ phía người dân, nên nhà lãnh đạo trước hết phải có đạo đức để tạo
ra sự tin tưởng, và khả năng tập hợp người tài để sau khi đã thiết kế ra một
tương lai chung, thì còn phải hiện thực hóa tương lai đó.
Còn
nhà cầm quyền thì ngược lại, họ sẽ thường trú ngụ trong quá khứ, vì chỉ trong
quá khứ, nơi các sự kiện đã xảy ra, họ mới tìm ra được các lý do để biện minh
cho sự tồn tại của mình ở trong hiện tại, theo nghĩa hiện tại là sự nối dài của
quá khứ. Còn trong tương lai, các sự kiện chưa xảy ra, nên dù có muốn, họ cũng
không thể sử dụng. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không cần bản lĩnh đương đầu với một
tương lai bất định, mà chỉ cần nhiều mưu mô để bày binh bố trận, sắp xếp quá khứ
và hiện tại sao cho có lợi nhất cho mình. Nhà cầm quyền cũng sẽ không cần người
tài để hiện thực hóa một tương lai đã được thiết kế, mà cần trước hết các bè
phái hoặc nhóm lợi ích thân tín để bảo vệ lẫn nhau và duy trì quyền lực cũng
như vị trí hiện thời.
Trong
nhiều trường hợp, nếu nhà cầm quyền cũng quan tâm đến tương lai và thiết kế ra
một tương lai mới, thì phải xét xem tương lai đó đáp ứng được lợi ích chính của
nhóm đối tượng nào. Nếu tương lai đó chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm,
nhưng nhân danh cả dân tộc, thì đó là một thủ thuật của nhà cầm quyền, còn nếu
tương lai đó đáp ứng lợi ích chung của toàn dân, thì trong trường hợp đó, nhà cầm
quyền đã tự chuyển hóa thành nhà lãnh đạo.
Như
vậy có thể thấy, nhà lãnh đạo là người sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến
tương lai, còn nhà cầm quyền sẽ sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến quá
khứ. Vậy nên, khi nghe các ứng viên thuyết trình, nếu họ nói về tương lai và về
chương trình hành động để hiện thực hóa tương lai đó, và thuyết phục người dân
tin tưởng vào tương lai đó và đồng lòng hiện thực hóa nó, ta biết đó là nhà
lãnh đạo. Còn nếu ứng viên nói về quá khứ, và dùng quá khứ như một sự đảm bảo
cho tính chính đáng của mình, thì ta biết đó là nhà cầm quyền.
Một
cách logic, chỉ người sống trong tương lai mới có thể đưa toàn dân đi đến tương
lai. Sự phát triển đột phá sẽ chỉ xảy đến trong trường hợp này. Còn người sống
trong quá khứ, sẽ muốn toàn dân trú ngụ ở trong quá khứ, đặc biệt là quá khứ có
chút hào quang. Tuy nhiên, thời gian không ngừng trôi, tương lai không thể
tránh, nên tương lai trong trường hợp của nhà cầm quyền sẽ là chỉ đơn thuần là
sự mở rộng của quá khứ. Nó chỉ đơn thuần là sự tịnh tiến trong thời gian của
quá khứ. Mọi sự đều có thể đoán biết trước mà không có sự phát triển đột phá
nào có thể đến. Đó chính là lý do vì sao các thể chế phong kiến có thể kéo dài
hàng nghìn năm mà sự phát triển cứ như giậm chân tại chỗ. Vì họ chỉ sống trong
quá khứ, luôn lấy quá khứ làm chuẩn mực, nên không vượt qua được quá khứ của
mình. Mà đã không vượt qua được quá khứ của mình thì thời gian trôi họ cũng sẽ
chỉ giậm chân tại chỗ mà thôi.
Nếu
giậm chân tại chỗ có thể là mục đích của nhà cầm quyền, thì đó là điều không
nhà lãnh đạo nào mong muốn. Vì khi để dân tộc giậm châm tại chỗ, trong khi các
dân tộc khác vẫn không ngừng mải miết tiến lên, nhà lãnh đạo đã không hoàn
thành sứ mệnh của mình, vì thế sự lãnh đạo mà họ đã được ban trao sẽ bị nhân
dân lấy lại. Còn nhà cầm quyền thường tìm cách kiểm soát xã hội để ngăn chặn
nguy cơ này, nên họ có thể hài lòng với trạng thái giậm chân tại chỗ này, miễn
sao quyền lực và vị trí của mình được đảm bảo.
Hệ
thống chính trị hướng đến
Điểm
khác biệt thứ tư là khác biệt ở hệ thống chính trị nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm
quyền xây dựng lên.
Để
thực hiện được công việc lãnh đạo của mình, một trong những nền tảng bắt buộc
nhà lãnh đạo phải có, đó là sự chính trực vẹn toàn trong công việc và lời nói của
mình.
Lý
tưởng của nhà lãnh đạo, ước mơ hay khát vọng của họ, không ai có thể truy nhập
trực tiếp được. Nhưng người dân sẽ biết được gián tiếp những điều đó thông qua
lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo. Và quan trọng hơn, người dân có thể giám
sát được những điều đó, để từ đó tin tưởng và ban trao sự lãnh đạo. Chỉ khi được
ban trao sự lãnh đạo, trong tin tưởng và tự nguyện, thì nhà lãnh đạo mới có thể
hành xử công việc lãnh đạo của mình. Và cũng chỉ khi đó, các dự án lãnh đạo mới
có thể thành việc.
Sự
chính trực vẹn toàn này sẽ không chỉ dừng ở trong lời nói và việc làm của nhà
lãnh đạo, mà phải được mở rộng ra cả hệ thống mà người đó thiết kế và vận hành,
và thể hiện ra thành sự minh bạch. Một hệ thống chính trực là một hệ thống minh
bạch. Chính vì vậy, nhà lãnh đạo bao giờ cũng hướng đến việc xây dựng một hệ thống
minh bạch, còn nhà cầm quyền thì không. Vì với nhà cầm quyền, quyền lực đến được
không qua sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ
không quan tâm đến sự tin tưởng của người dân, mà tập trung vào tuân thủ và đàn
áp.
Để
công việc lãnh đạo được thành công, nhà lãnh đạo bắt buộc phải thuyết phục được
toàn dân tham gia, và huy động được mọi nguồn lực của người dân, để hiện thực
hóa các dự án lãnh đạo của mình, hay rộng hơn là toàn bộ tương lai mà nhà lãnh
đạo thiết kế ra. Để làm được điều này, yêu cầu tiên quyết là toàn dân phải có
cơ hội được tham gia ngay từ những khâu đầu tiên, trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua người đại diện của mình.
Muốn
vậy, nhà lãnh đạo phải có thêm một nền tảng cốt yếu khác, là bao dung hội hợp.
Chỉ khi có được sự bao dung hội hợp thì nhà lãnh đạo mới có thể thu hút được đủ
người tài, và có được đủ sự ủng hộ của toàn dân để hiện thực hóa các chương
trình lãnh đạo của mình.
Với
hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam, khi chiến tranh xảy ra liên miên, chia
cắt lòng người còn nặng nề, thì bao dung hội hợp lại càng trở nên quan trọng
trong sự phát triển của đất nước.
Sự
bao dung hội hợp này, cũng tương tự như chính trực vẹn toàn, phải được mở rộng
ra cả hệ thống chính trị mà nhà lãnh đạo xây dựng lên.
Vậy
đâu là một hệ thống có khả năng bao dung hội hợp với mọi người dân? Rõ ràng, đó
chỉ có thể là một hệ thống dân chủ. Vì hệ thống dân chủ cho phép mọi người dân
đều có cơ hội được tham gia và đóng góp, được bày tỏ chính kiến của mình trong
việc phát triển đất nước. Còn một hệ thống độc tài sẽ không có khả năng làm được
việc này.
Và
trở lại cách thức đạt được quyền lực rằng, nhà lãnh đạo sẽ đạt được quyền lực
thông qua sự ban trao, mà cụ thể là một cuộc bầu cử dân chủ và minh bạch, còn
nhà cầm quyền sẽ đạt được quyền lực thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, sẽ thấy
rằng nhà lãnh đạo sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ,
không chỉ vì một hệ thống như vậy sẽ mang lại tính chính danh cho quyền lực và
vị trí mà họ đang nắm giữ, mà nó còn là một công cụ đắc lực để họ huy động mọi
người lực trong việc hiện thực hóa các chương trình lãnh đọa của mình. Còn nhà
cầm quyền sẽ lảng tránh việc này, vì nó đe dọa trực tiếp đến quyền lực và vị
trí mà họ đang có được thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt.
Vậy
nên, nhìn vào hệ thống chính trị đang được xây dựng, có thể biết được đó là nhà
lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Sứ
mệnh cá nhân
Điểm
khác biệt thứ năm là sứ mệnh cá nhân mà nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền tự đặt
ra cho mình.
Nhà
lãnh đạo, xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực và bản chất công việc của
mình, thường tự đặt ra một sứ mệnh cá nhân lớn lơn mối quan tâm của bản thân,
gia đình hoặc phe nhóm mình, tức gắn liền sứ mệnh cá nhân của mình với tương
lai của cộng đồng mình dẫn dắt. Vì sao vậy? Vì chỉ thông qua cách đó, nhà lãnh
đạo mới có được sự tin tưởng và ban trao sứ mệnh lạo của người dân. Và cũng chỉ
bằng cách đó, nhà lãnh đạo mới có thể thuyết phục người dân tin vào tương lai
mà nhà lãnh đạo thiết kế ra, và cùng hợp tác với nhà lãnh đạo để hiện thực hóa
tương lai đó. Nếu sứ mệnh của nhà lãnh đạo chỉ đơn thuần là để vinh thân phì
gia, hoặc chỉ nhằm mang lại lợi ích cho phe nhóm mình, thì không có cách nào
thuyết phục được người dân tin tưởng để ban trao sự lãnh đạo. Đó là lý do vì
sao trong các cuộc bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo tương lai luôn phải truyền
thông và trình bày về chương trình hành động của mình, để thông qua đó người
dân thấy và đánh giá được tương lai mà nhà lãnh đạo dự kiến sẽ tạo ra có đáng
thuyết phục, sứ mệnh của nhà lãnh đạo có gắn với mệnh vận mệnh của dân tộc hay
không. Chính vì lẽ đó, một nhà lãnh đạo đích thực luôn mang trong mình một sứ mệnh
cá nhân lớn lao, và luốn hướng đến việc trở thành và hành động bởi những điều lớn
hơn bản thân, gia đình hay phe nhóm của mình.
Nhà
cầm quyền thì ngược lại. Do cách thức đạt được quyền lực thông qua kế truyền, sắp
xếp hoặc chiếm đoạt, và bản chất của công việc cầm quyền là tìm mọi cách để hợp
thức hóa và duy trì quyền lực đã có, sứ mệnh của nhà cầm quyền thường chỉ giới
hạn trong việc duy trì và trục lợi từ quyền lực đang có, cho cá nhân, gia đình
hoặc phe nhóm của mình. Nhà cầm quyền không quan tâm đến việc mình có được người
dân tin tưởng ban trao cho sự lãnh đạo hay không, nên không có động lực đặt ra
những sứ mệnh cá nhân lớn hơn bản thân mình, và xông pha gánh vác những công việc
khó khăn liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc. Trong hầu hết các trường hợp,
nhà cầm quyền sẵn sàng hy sinh lợi ích của dân tộc để đánh đổi lấy lợi ích cá
nhân. Lịch sử khắp nơi đã cho thấy, nhiều nhà cầm quyền sẵn sàng đánh đổi chủ
quyền hoặc đẩy dân tộc đến bước tồn vong chỉ để duy trì sự cầm quyền hoặc bảo vệ
lợi ích của cá nhân mình. Thậm chí, họ sẵn sàng mua bán đổi trác lợi ích của
dân tộc chỉ để thỏa mãn hưởng thụ cá nhân, nhiều khi chỉ tính bằng một vài cuộc
ăn chơi trác táng.
Đó
là lý do vì sao ở những nước dân chủ, đạo đức cá nhân hay cách thức sử dụng tài
sản công lại là vấn đề quan trọng và nhạy cảm với nhà lãnh đạo. Nhiều người đã
phải từ chức vì những vụ việc cá nhân cỏn con như vậy. Nhưng dưới con mắt của
người dân thì vấn đề không hề cỏn con chút nào, bởi qua đó, người dân sẽ nhận
ra sứ mệnh trong công việc mà anh đang thực thi, và nhận diện ra anh là nhà
lãnh đạo hay nhà cầm quyền. Nếu đó là nhà cầm quyền, người dân sẽ thu hồi lại sự
lãnh đạo mà họ đã ban trao, trước hết thông qua công luận, sau là qua các thủ tục
pháp lý nếu cần, vì thế nhà lãnh đạo không còn cách nào khác là phải từ chức.
Tâm
thế hành xử
Điểm
khác biệt thứ sáu là khác biệt trong tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm
quyền. Xuất phát từ cách thức đạt được quyền lực, và bản chất của công việc lãnh
đạo và cầm quyền là khác nhau, nên tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm
quyền cũng khác nhau. Nếu như nhà lãnh đạo dám nhìn thẳng vào hiện tại, đối mặt
với hiện tại theo cách nó đúng là như vậy, để từ đó tìm ra sự thật và các cơ hội,
các điều kiện tốt nhất để hiện thực hóa tương lai mà họ thiết kế ra, thì nhà cầm
quyền sẽ thường nhìn hiện tại qua lăng kính bảo vệ quyền lực, vì thế thường thấy
hiện tại như một sự đe dọa, do đó thường chỉ nhìn ra các thế lực thù địch, nguy
cơ và sự bất an. Vì lẽ đó, nếu nhà lãnh đạo luôn là người có tâm thế chủ động
khi đối mặt với hiện tại, theo nghĩa luôn chủ động tìm ra sự thật và kết nối
các sự thật, tổ chức các nguồn lực hiện có của hiện tại để hiện thực hóa tương
lai mà họ đã thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ luôn ở trong tâm thế bị động trước
hiện tại, khi luôn coi hiện tại là một mối đe dọa cần xử lý, thậm chí ngay cả
khi anh ta chủ động xử lý hiện tại như xử lý một mối đe dọa thì trên thực tế đó
vẫn là một sự bị động vì hiện tại đang diễn biến theo hướng buộc anh ta phải
làm như vậy.
Chính
vì thế, nhìn phong thái hành xử của những người đứng đầu của tổ chức, và rộng
hơn là của đất nước, trước những diễn biến của hiện tại, chúng ta sẽ biết được
đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Hiển
nhiên, một người chủ động là một người có khả năng tạo ra sự thay đổi và làm chủ
sự thay đổi đó. Đó là một người có quyền lực thực sự. Còn một người bị động thì
muốn hay không anh ta vẫn chỉ là nạn nhân của sự thay đổi. Đó là một người
không có quyền lực thực sự, dù trên thực tế anh ta có đủ quyền uy và chức vị để
hành xử như một người có quyền lực. Điều này cũng dễ hiểu khi ta trở lại cách
thức đạt được quyền lực của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền, và thấy rằng, quyền
lực thực sự chỉ có được khi nó được ban trao trong sự tin tưởng và tự nguyện,
còn quyền uy có thể đạt được thông qua sắp xếp hoặc cưỡng đoạt.
Nói
cách khác, nhà lãnh đạo có được quyền lực thông qua sự ban trao, trong tự do và
tin tưởng. Còn nhà cầm quyền có được quyền uy thông qua sự sắp xếp và chiếm đoạt,
trong mưu mô và đe dọa.
Chuyển
hóa cầm quyền – lãnh đạo
Cần
lưu ý là có tồn tại sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền. Nếu như
trong quá khứ, một người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì họ được người
dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp
ứng được mối quan tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo
và bản thân họ là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai đó, mà thường gặp nhất
là lãnh đạo của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau
đó khi sứ mệnh ban đầu đã hoàn tất, họ sẽ không còn là nhà lãnh đạo nữa, mà đã
chuyển hóa thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực của
mình, và dùng hào quang của quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương
lai mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng mối quan tâm của chính họ và một nhóm người
có lợi ích liên quan chứ không phải là một tương lai chung đáp ứng mối quan tâm
của tất cả mọi người. Trong trường hợp ấy, người đó hoặc nhóm người đó đích thị
là một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo.
Ngược
lại, một nhà cầm quyền khi chuyển đổi công việc của mình từ việc tìm mọi cách bảo
vệ quyền lực và lợi ích của mình hiện thời, sang thiết kế một tương lai chung
cho toàn dân tộc, thuyết phục toàn dân tin vào tương lai đó và nỗ lực hiện thực
hóa nó thì nhà cầm quyền khi đó đã chuyển hóa trở thành nhà lãnh đạo. Trong nhiều
trường hợp, tuy sự chuyển hóa này không đủ rõ ràng về hình thức, và nhà cầm quyền
tuy vẫn mang danh là nhà cầm quyền, thậm chí mang danh độc tài, thì về nội
dung, người đó đã tự chuyển hóa để trở thành nhà lãnh đạo, vì công việc người
đó thực hiện và sứ mệnh mà người đó gánh vác là công việc và sứ mệnh của nhà
lãnh đạo, cho dù cách thức đến với công việc và sứ mệnh đó không được chính
danh thông qua sự ban trao của người dân. Tuy nhiên, lịch sử sẽ công bằng nhìn
ra người đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền, và sẽ ghi nhận đầy đủ những gì
mà người đó đóng góp.
Với
Việt Nam, câu chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là câu chuyện thời sự. Chúng ta
đã từng có nhà lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng ta thiếu các nhà lãnh đạo như
hiện giờ. Nhìn đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra
là: Liệu chúng ta có tiếp tục cần các nhà cầm quyền? Hiển nhiên là không, chúng
ta cần các nhà lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm quyền. Nhưng bằng cách nào để
có được các nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một môi trường để cho nhà lãnh đạo
xuất hiện và thực hiện công việc của mình?
Câu
trả lời xin bỏ ngỏ cho những ai đang suy tư và hành động để thúc đẩy sự phát
triển đất nước, và đặc biệt cho những người trong cuộc chuyển giao quyền lực
đang diễn ra những ngày đầu năm 2016 này.
G.V.D.
No comments:
Post a Comment