Biên
dịch: Lâm
Minh Đạt | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 18/01/2017 by The Observer
Lo
lắng về các vấn đề kinh tế trong tình hình chính trị hiện nay đã khiến cho các
cử tri của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ rơi vào tay của những người theo chủ nghĩa
dân tuý. Phải chi, như người ta vẫn thường nói, nền kinh tế có thể trở lại với
một tốc độ tăng trưởng GDP và năng suất “bình thường”, cuộc sống sẽ cải thiện
cho nhiều người hơn, sự chống đối chính phủ sẽ suy yếu dần, và chính trị cũng sẽ
trở lại “bình thường”. Lúc đó, chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa, và dân chủ có thể
tiếp tục tiến về phía trước.
Nhưng
những suy nghĩ như vậy được ngoại suy từ một khoảng thời gian nhìn chung khác
thường trong lịch sử. Quãng thời gian đó đã qua, và các thế lực duy trì thời kỳ
đó khó có thể tập hợp lại được trong tương lai gần. Sự đổi mới công nghệ và
nhân khẩu học là một cơn gió ngược, không phải là cơn gió xuôi giúp thúc
đẩy tăng trưởng, và những thủ thuật tài chính vẫn không thể cứu được tình trạng
này.
Giai
đoạn khác thường trong lịch sử là quãng thời gian khoảng hơn trăm năm từ sau cuộc
Nội chiến Mỹ, khi mà những đột phá trong năng lượng, điện khí hoá, viễn thông
và giao thông vận tải về cơ bản đã tái định hình xã hội. Cuộc sống con người trở
nên hiệu quả hơn, và tuổi thọ trung bình đã tăng lên đáng kể. Dân số thế giới
đã tăng hơn 50% trong giai đoạn 1800 – 1900, và sau đó tăng hơn gấp đôi trong
vòng 50 năm tiếp theo, cùng với các nền kinh tế phát triển nhanh hơn rất nhiều
so với những thế kỷ trước.
Đến
cuối những năm 1970, tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển ở phương Tây bắt
đầu chậm lại, và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang
Alan Greenspan đã mở ra một chu kỳ nợ làm tăng mạnh hoạt động kinh tế. Mỹ, cho
tới khi đó vẫn là chủ nợ của thế giới, đã trở thành con nợ, trong khi Trung Quốc
và các thị trường mới nổi khác hưởng lợi từ sự gia tăng thâm hụt thương mại của
nước Mĩ. Đòn bẩy tài chính đã thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu thêm gần 30 năm nữa.
Cuộc
khủng hoảng toàn cầu năm 2008 mang lại một kết thúc đột ngột đối với thời đại của
những thủ thuật tài chính. Nhưng các nhà hoạch định chính sách không thích tăng
trưởng chậm lại, và các ngân hàng trung ương đã trưng dụng cạn kiệt các công cụ
của họ trong một nỗ lực để kích thích hoạt động kinh tế mặc dù nhu cầu không
cao. Với việc lợi tức của các tài sản thu nhập cố định truyền thống ngày càng
thấp, các nhà đầu tư đã đâm đầu vào các tài sản rủi ro dưới nhiều hình thức
khác nhau làm đẩy giá lên; những người giàu trở nên giàu hơn và tầng lớp trung
lưu đã bị bỏ lại phía sau. Sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế đã làm bùng phát
sự giận dữ và chủ nghĩa dân túy dẫn đến hậu quả là Brexit và Trump đắc cử tổng
thống.
Bất
chấp tất cả những gì mà các ngân hàng trung ương đã thực hiện để vực dậy tăng
trưởng kinh tế, yếu tố nhân khẩu học và các cải tiến công nghệ đã chống lại
chính họ. Vấn đề dân số lão hóa ở các nền kinh tế tiên tiến đang gây nên gánh nặng
ngày càng lớn đối với mạng lưới an sinh xã hội. Và Trung Quốc cũng đang già đi.
Sự gia tăng dân số mạnh nhất hiện nay (và trong tương lai) là ở châu Phi, nơi
mà tăng dân số không thúc đẩy năng suất toàn cầu như các nơi khác.
Hơn
nữa, làn sóng đổi mới công nghệ hiện nay không phải là cứu cánh cho tất cả mọi
người. Ngay cả những thứ như Uber và Amazon, hay cơ bản hơn như người máy, giúp
mọi thứ trở nên tiện lợi hơn nhưng chúng lại loại bỏ các công việc lao động
chân tay và/hoặc làm giảm tiền lương.
Đây
là điển hình của quá trình “phá hủy sáng tạo” mà Joseph Schumpeter đã mô tả như
là “nàng hầu” của tăng trưởng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Làn sóng đầu
tiên của sáng tạo đột phá chủ yếu mang lại lợi ích cho một số ít các doanh
nhân. Rồi đến một làn sóng gây biến động việc làm, khi công nghệ được điều chỉnh
để phù hợp với các ngành công nghiệp hiện hữu. Ba thập niên trước, chính
Wal-Mart đã sử dụng hệ thống máy tính và dịch vụ hậu cần để càn quét các cửa
hàng nhỏ; nhưng ngày hôm nay, họ đang phải gồng mình chống lại Amazon.
Làn
sóng thứ ba là sự phổ biến rộng rãi của đổi mới theo những cách làm tăng năng
suất nói chung và mức sống. Điều này tốn thời gian hơn nhiều. Hoặc, như Robert
Solow, người đã đoạt giải Nobel kinh tế học, nhận xét vào năm 1987, “Bạn có thể
nhìn thấy thời đại máy tính ở khắp mọi nơi trừ trong các thống kê về năng suất.”
Robert
Gordon từ Đại học Northwestern đã lập luận rằng các tác động kinh tế lên các cải
tiến công nghệ hiện nay không có tác động tốt bằng những cải tiến về ống nước
hoặc điện trước đây. Có lẽ chúng ta đang ở giai đoạn đầu của chu kỳ kiểu
Schumpeter về cải tiến (làm giàu cho một số ít) và hủy diệt (tạo ra sự lo lắng
trong các lĩnh vực đang bị đe doạ). Rốt cuộc, năng suất trung bình và thu nhập
thực tế có thể sẽ được hưởng lợi khi các đột phá về công nghệ tạo nên những dạng
tăng trưởng kinh tế mới.
Vấn
đề ở đây là có thể mất một thập niên hoặc lâu hơn trước khi công nghệ robot và
những thứ tương tự có thể giúp tăng năng suất nói chung. Và dù Schumpeter hay
Gordon đúng thì cũng không liên quan đến việc các chính trị gia phải đối mặt với
sự giận dữ từ các cử tri do các tiêu chuẩn sống đã đi xuống. Hôm nay, những cử
tri chán ngấy đang chống đối toàn cầu hóa; ngày mai, họ có thể trở thành những
người chống đối việc tự động hoá, thay thế nhân công bằng máy móc.
Câu
hỏi được đặt ra là liệu sự thay đổi trọng tâm từ chính sách tiền tệ phi chính
thống sang quản lý cầu theo lí thuyết của Keynes có thể cứu được tình hình hiện
nay hay không. Nhìn chung người ta nhìn nhận rằng các chính sách tiền tệ đã hết
tác dụng ở Mỹ và Châu Âu, và kích thích và mở rộng tài khóa – ví dụ như thông
qua cắt giảm thuế và đầu tư cơ sở hạ tầng – phải được sử dụng để thay thế.
Nhưng việc này đòi hỏi các hệ thống chính trị ổn định để có thể duy trì một chiến
lược tài khóa dài hạn. Những diễn biến gần đây, đặc biệt là ở châu Âu, chỉ ra rằng
những chiến lược này sẽ rất khó thực hiện.
Tại
Mỹ, chiến thắng của Trump, cùng với Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế tại lưỡng viện
Quốc hội, đã mở đường cho việc cắt giảm thuế và gia tăng chi tiêu quốc phòng.
Các máy bơm tiền có vẻ như đã sẵn sàng. Nhưng việc mở rộng tài khóa sẽ nhiều khả
năng gặp phải kháng lực từ chính sách tiền tệ, với việc Fed sẽ “bình thường
hóa” (tức tăng) lại lãi suất.
Tuy
nhiên, người ta vẫn hy vọng là tăng trưởng nhanh hơn và tiền lương cao hơn tại
Mỹ sẽ chế ngự sự nổi loạn của các cử tri dân túy. Trớ trêu thay, nhiệm vụ này sẽ
phụ thuộc vào việc Fed có “làm điều tốt” hay không – cụ thể là có bình thường
hóa lãi suất một cách hết sức thận trọng hay không, cùng lúc cho phép thu nhập
lao động trong cơ cấu GDP tăng lên, cho dù điều đó có đồng nghĩa với sự tăng vọt
của lạm phát.
Nói
theo cách nói của Dylan Thomas, những người tin tưởng vào thị trường (tự do)
không nên âm thầm bước trong đêm tối của chủ nghĩa dân túy. Chúng ta nên chiến
đấu chống lại sự lụi tàn ánh sáng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu với mọi công cụ
chúng ta có thể có. Tăng trưởng chậm lại và phản ứng chính trị dữ dội của ngày
hôm nay không phải là “tình trạng bình thường mới”. Thay vào đó, nó gợi nhó đến
“tình trạng bình thường cũ” mà chúng ta từng trải qua trong những năm 1930. Cho
dù con đường đúng đắn hướng về phía trước của nền kinh tế toàn cầu là gì thì
chúng ta đều biết rằng đó không thể là con đường quay trở lại chủ nghĩa biệt lập
và chủ nghĩa bảo hộ của thời kỳ đó.
----------
Alexander
Friedman Là Giám đốc Điều hành (CEO) của GAM. Ngoài ra, ông còn giữ chức vụ
Giám đốc Đầu tư Toàn cầu của UBS, Giám đốc Tài chính của Quỹ Bill & Melinda
Gates, và nghiên cứu viên tại Nhà Trắng dưới thời tổng thống Clinton.
Copyright:
Project Syndicate 2016 – Can global capitalism
be saved?
Nguồn:
No comments:
Post a Comment