Đinh Phương
Posted by adminbasam on
05/02/2016
Lời
tác giả: Người viết
nói ra điều này có thể bị hiểu theo một cách khác là kỳ thị người bắc. Nhưng thực
tế người viết gốc người miền bắc, chỉ muốn nói ra một sự thực với hy vọng đánh
động được vào cách suy nghĩ về những vấn đề liên quan một cách tích cực, nhất
là với giới trí thức đang cầm bút.
Người ta thường giương khẩu hiệu Bắc-Trung-Nam là một,
nhưng thực tế đấy chỉ là những lời có cánh.
Cái đặc tính kỳ thị vùng miền được cổ súy trong văn
chương dân gian, và còn được lưu truyền cả trong sách giáo khoa:
“Ta về ta tắm ao ta
dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn”
Suy diễn và hành động theo nhưng câu ca dao như trên
sẽ đưa đến trước hết là cục bộ gia đình, sau đó là bè phái họ hàng bạn bè thân
thuộc, rồi xa hơn là cục bộ vùng miền, quốc gia xuyên quốc gia.
Vô tình hay cố ý, nó làm cho người ta nghĩ đó là tự
nhiên, một sự tự nhiên mang tai hoạ của một khối u ác tính. Ở thời buổi văn
minh hiện đại cùng với xu hướng toàn cầu hóa, lối tư duy này xem ra rất “phản động”.
Biết rõ người nhà mình sai, nhưng vẫn mưu mẹo để chống chế. Biết rõ đất nước
người ta giầu mạnh nhưng cứ khư khư là đang giẫy chết (và cũng muốn người ta chết
thật).
Sau khi đất nước “thống nhất”, “giang sơn được thu về
một mối”, thì tình trạng “không thống nhất” vùng miền có cơ hội thể hiện rõ nét
nhất. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này ở mọi nơi sinh hoạt.
Trong cuộc chiến anh em, cho dù một số người nam –
dưới tên là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” (MTDTGPMN) – đã sát cánh
cùng người bắc để chiến thắng toàn bộ miển nam, và cho dù đã 40 năm “anh em”
hòa hợp tay bắt mặt mừng, thế nhưng cái đố kỵ vùng miền vẫn còn được giắt ở thắt
lưng, từ hạ tầng đến thương tầng của xã hội.
Thể hiện sự “thâm thúy” của mình, người bắc “xuất
chiêu” với người anh em miền nam ngay sau khi “giải phóng”. Năm 1976 – chỉ một
năm sau – cái gọi là “Tổng tuyển cử thống nhất đất nước” đã vĩnh viễn đưa
MTDTGPMN của người miền nam đến phần huyệt mộ, và họ ồ ạt đưa đưa cán bộ người
bắc vào nam nắm các vị trí chủ chốt đến tận cấp xã phường cho tới hôm nay. Còn
“Đạp-Đồng-Đài” ở đâu có sẵn cho họ “Vào-Vơ-Vét-Về” thì chỉ là câu chuyện cười
khẩy lúc bù khú.
Đọc qua các tài liệu như “Bên Thắng Cuộc”…, thì kỳ
thị vùng miền rất sít sao ở thượng tầng kiến trúc chính trị. Những mưu toan
nhân sự với “tư duy bắc kỳ” đã ảnh hưởng toàn bộ đến sự phát triển và tồn vong
của đất nước coi như gần một thế kỷ qua. Kết quả là gì hôm nay?
Nhiều người trong dịp đại hội đảng XII cứ đồn đoán
lăng nhăng, nhưng ít ai chịu nhận ra là ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người
miền nam – chỉ là “con ghẻ” của đảng. Giả thử nếu ông Dũng là người bắc, thì rất
khả dĩ là ông ấy không bị hất ra không trống không kèn như thế. Không mấy người
thần tượng ông Dũng, nhưng dù sao trong xứ mù thì ông Dũng còn là người chột –
dù dưới sức ép ngàn cân của Tầu – dám tuyên bố trước bá quan văn võ là “nhất định
không đánh đổi chủ quyền thiêng liêng với tình hữu nghị viển vông lệ thuộc nào
đó”.
Nhiều người bảo ông Trọng lần này mưu cao. Thực chất
ông Trọng đâu phải tính toán nhiều, đứng đằng sau ông Trọng cả là một ban bệ
„thâm mưu” người bắc, mà họ lại nằm trong Trung ương, nắm bộ Chính trị. Họ vận dụng
“văn hoá vùng miền“ với „dân chủ tập trung“ thì dân miền nào – ngoại trừ người
miền bắc – dù có giỏi đến đâu cũng bị kéo lật nhào khỏi cái ghế chóp bu quyền lực,
bằng mọi giá.
Đừng có mon men! Ông Trọng chỉ cần ngoáy chỗ này một
tí, chọc chỗ kia một tẹo, thế là xong. Tiêu chuẩn đầu tiên: “Tổng bí thư phải
là người miền bắc” đâu có phải là lời nói để đùa một cách vô tình. Đằng sau nó
cả là một “triết lý” đấy chứ! Thế là ông Dũng miền nam ngã ngựa, cho dù bao
nhiêu quan hầu chung quanh.
Trong ván bài chính trị truyền thống của đảng, người
bắc (và người trung phía bắc) luôn giành nắm bài chủ. Họ luôn cục bộ bè phái
như thế. Người nam (và người trung phía nam) chỉ là “người phu khiêng kiệu cưới”.
Bất luận thế nào, người bắc đã lãnh đạo miền bắc hơn
70 năm và miền nam hơn 40 năm. Họ để lại cho Việt Nam một đất nước rất dễ bị
người dân từ chối. Kết quả thấy rõ là ở đâu họ cầm quyền càng lâu thì vùng đất ấy
lại càng sa lầy, xã hội càng bạo lực, văn minh càng luẩn quẩn và kinh tế nồng
mùi lúa nước. Đơn giản: Thầy trò họ truyền cho nhau những lý luận giáo điều,
không được giáo dục để có một tư duy trong lành. Cứ đời ông này tiếp sang đời
ông sau như thế.
Sự khác biệt về cách sống của Sài Gòn và của Hà Nội
đã nói lên tất cả dù đã có hơn 40 năm nối liền. Có nhiều người mơ mộng: Sao
ngày 30.04 ấy không phải là ngày miền nam giải phóng miền bắc?
Để tồn tại và thăng tiến, đã đến lúc xã hội Việt Nam
phải tự khai phóng khỏi những tư duy giáo điều và lý luận độc hại. Người dân phải
nắm được quyền tự quyết để chọn người đại diện điều hành đất nước. Và ai, người
miền nào cũng được, miễn là họ có tài, can đảm, và đồng thời có lòng với người
dân, tránh được „khủng hoảng lãnh tụ“ như hiện nay. Chúng ta có sẵn lòng không?
Đại hội đảng XII đã xong. Với “nhân sự mới”, đất nước
sẽ đứng lại thêm ít năm nữa – chứ không phải “Đất nước đứng lên” như của nhà
văn Nguyên Ngọc – Muốn đứng lên sánh vai cùng cường quốc năm châu, Việt Nam cần
phải có một hệ thống chính trị với tư duy mới, con người mới, ít nhất là khác
hơn với cũ như đang hiện hình.
Càng kéo dài thêm tình trạng như hiện nay thì đất nước
càng mạt vận. Chúng ta chưa có gì đáng tự hào, ngoại trừ tự hào chiến tranh,
đánh thắng hai đế quốc theo kiểu của mình: “Lấy thân chèn pháo” và “chui luồn
điạ đạo Củ Chi”.
No comments:
Post a Comment