Tác
giả: Alexander L. Vuving
Biên
dịch: Huệ Việt (Với sự hiệu đính của tác giả)
Bài
viết được hoàn thành năm 2015.
Posted
on February 21, 2016 by hueviet
Kể
từ năm 2014, quần đảo Trường Sa đã trở thành một công trường xây dựng lớn độc
nhất vô nhị. Hàng chục tàu của Trung Quốc đã làm việc suốt ngày đêm, cắt san hô
và nạo vét cát đáy biển để biến những rạn đá chìm thành đảo nổi nhân tạo. Trong
vòng chưa đầy một năm, Trung Quốc đã tạo ra hơn 10 km vuông đất mới trên bảy địa
điểm khác nhau trên cả quần đảo mà tổng diện tích đất ban đầu chỉ có khoảng 4
km vuông. Bãi Chữ Thập, chìm ở thuỷ triều cao khi bị TQ chiếm đóng vào năm
1988, giờ đã là một hòn đảo rộng 2,74 km vuông đủ lớn để chứa một đường băng
dài 3.100 mét và một bến cảng rộng 63 ha. Và mặc dù đảo nhân tạo ở Bãi Chữ Thập
đã gấp gần 6 lần diện tích hòn đảo tự nhiên lớn nhất ở Trường Sa là đảo Ba
Bình, nó vẫn nhỏ hơn hai hòn đảo nhân tạo khác. Vào tháng Sáu năm 2015, Trung
Quốc đã tạo được 4 km vuông đất tại Xu bi và và 5,6 km vuông đất tại Vành Khăn,
và những con số này vẫn đang tiếp tục tăng trưởng.[1]
Vậy
kết cục của cuộc chơi xây dựng đảo này sẽ là gì? Vai trò của các hòn đảo nhân tạo
này trong thời kỳ chiến tranh và ở phương diện luật biển rất đáng hoài nghi. Những
hòn đảo này quá nhỏ và quá cô lập để có thể chống đỡ các cuộc tấn công lớn, chúng
có thể dễ dàng trở thành gánh nặng trong thời gian chiến tranh. Chỉ là đảo nhân
tạo, những thực thể địa lý này sẽ không thể được hưởng một vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý. Vậy tại sao Trung Quốc lại đầu tư những nguồn lực khổng lồ để tạo
ra những hòn đảo này? Trung Quốc cần những đảo này làm gì?
Cách
tiếp cận truyền thống tập trung vào ý nghĩa quân sự và pháp lý của những hoạt động
này không phù hợp để trả lời những câu hỏi trên. Trung Quốc đang theo đuổi một
chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác với lối nghĩ thông thường.[2] Triết lý đằng sau chiến lược này có
thể được tìm thấy trong “Binh pháp” của Tôn Tử. Ý tưởng then chốt là làm sao để
không đánh mà vẫn thắng. Mục tiêu tổng thể là giành quyền kiểm soát Biển Đông,
nhưng không phải thông qua các trận đánh lớn. Thay vào đó, Trung Quốc muốn đạt
được mục tiêu của mình thông qua các hoạt động từng bước thay đổi thực địa, tạo
dựng một sân chơi có lợi cho mình, làm thay đổi về mặt tâm lý những tính toán
chiến lược của các quốc gia khác. Logic cơ bản của chiến lược này là khéo léo
tác động lên các cấu hình chiến lược của khu vực để làm thay đổi thực tế theo
xu hướng có lợi cho sự thống trị của Trung Quốc.
Có
ba yếu tố bắt buộc cần có để theo đuổi chiến lược bành trướng lắt léo này, và
sáu thập kỷ can dự vào Biển Đông của Bắc Kinh đã tuân theo những yếu tố này một
cách chặt chẽ (Giả thuyết này đã được trình bày lần đầu tiên vào năm 2014 ngoái
và đã dự đoán được một cách chính xác các chương trình xây dựng của Trung Quốc ở
bãi Xubi và Vành Khăn)[3]
Yếu
tố bắt buộc đầu tiên là tránh tối đa những trận đánh lớn; có thể tạo ra những đụng
độ, nhưng chỉ là để khai thác một tình huống có lợi đang có sẵn. Yếu tố này đã
từng là trụ cột trong kế hoạch Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ tay Nam Việt Nam
vào năm 1974 và đụng độ với Việt Nam ở quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Yếu
tố bắt buộc thứ nhì là kiểm soát các vị trí chiến lược trong khu vực: nếu những
vị trí này còn chưa có ai chiếm hữu, chúng cần phải được chiếm một cách âm thầm
lén lút nếu có thể, và bằng một cuộc xung đột có giới hạn, nếu cần thiết. Có thể
dễ thấy yếu tố này nhất khi Trung Quốc chiếm 7 thực thể ở Trường Sa, và bãi cạn
Scarborough vào năm 2012.
Yếu
tố bắt buộc thứ ba là phát triển những vị trí này thành các trạm kiểm soát mạnh,
các trung tâm hậu cần vững chắc và các căn cứ triển khai sức mạnh quân sự một
cách hiệu quả. Đây chính xác là những gì Trung Quốc hiện đang tiến hành ở Biển
Đông.
Những
hoạt động này nhằm phục vụ mục tiêu kép là thiết lập uy thế và chủ quyền của
Trung Quốc ở Biển Đông. Nhờ ở những vị trí chiến lược và có tác dụng hỗ trợ hậu
cần, các đảo trong tay Trung Quốc sẽ là những căn cứ vững chắc để từ đó vô số
các tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có người
lái hoặc không người lái, toả ra thống trị bầu trời và vùng biển của Biển Đông.
Các
vị trí kiểm soát then chốt bao gồm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, Bãi Chữ
Thập, Xu Bi và Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough ở phía
đông bắc của Biển Đông. Đảo Phú Lâm, Bãi Chữ Thập, Vành Khăn và bãi cạn
Scarborough sẽ tạo thành một cụm bốn điểm mà từ đó, với bán kính 250 hải lý, có
thể theo dõi chặt chẽ toàn bộ khu vực chính của Biển Đông. Tại quần đảo Trường
Sa, các đá Xu bi, Vành Khăn và Chữ Thập tạo ra một tam giác hoàn hảo để bao phủ
toàn bộ quần đảo (Xem bản đồ).
Trên
đảo Phú Lâm, Trung Quốc gần đây đã nâng cấp một đường băng dài 3.000 mét và một
cảng nước sâu dài 1.000 mét. Đường băng này có khả năng đón nhận ít nhất tám
máy bay thế hệ thứ tư như máy bay chiến đấu SU-30MKK và máy bay ném bom JH-7,
trong khi các bến cảng có thể tiếp nhận những tàu có trọng tải từ 5.000 tấn trở
lên. Một đường băng và một cảng có kích cỡ tương tự đã được xây dựng tại Bãi Chữ
Thập. Hình dạng các đảo nhân tạo đang được hình thành ở Xu Bi và Vành Khăn gợi
ý rằng ở đây rồi cũng sẽ có những đường băng và một hải cảng với kích thước
tương tự. Mặc dù Bắc Kinh hiện chưa tiến hành xây dựng quy mô lớn ở bãi cạn
Scarborough, sẽ không ngạc nhiên nếu như trong tương lai cũng sẽ có một đường
băng và một cảng nước sâu tại đây.
Các
khu vực đã được mở rộng thông qua lấn biển sẽ cho phép Trung Quốc thiết lập tại
các tiền đồn các trang thiết bị quan trọng của quân đội cũng như các thiết bị
lưỡng dụng cho cả quân sự và dân sự. Bốn tiền đồn nhỏ hơn của Trung Quốc ở quần
đảo Trường Sa hiện giờ đã ít nhiều có kích thước tương tự với tiền đồn lớn nhất
của Việt Nam ở đây. Đảo Trường Sa, hòn đảo lớn nhất mà Việt Nam đóng quân rong
quần đảo, rộng 15 ha. Bốn tiền đồn Trung Quốc, Châu Viên, Gạc Ma, Gaven, và Tư
Nghĩa giờ đã có kích thước lần lượt là 23,1 ha, 10,9 ha, 13,6 ha và 7,6 ha.
Trung
Quốc sẽ đặt các trạm radar, các trạm phát điện và nước, cũng như các kho tàng,
bến bãi và những cơ sở hạ tầng dịch vụ trên những đảo họ đang chiếm. Các trang
thiết bị ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có đủ năng lực để hỗ trợ hàng ngàn tàu cá
và hàng trăm tàu tuần tra, tàu chiến và máy bay hoạt động ở những vùng biển và
vùng trời cách xa bờ biển Trung Quốc hàng trăm dặm. Trung Quốc cũng sẽ đưa hàng
ngàn dân, nhân viên quân sự và dân sự tới cư ngụ ở đây. Cùng với vài hòn đảo đã
được mở rộng ở Hoàng Sa và bảy đảo nhân tạo ở Trường Sa đóng vai trò như là những
điểm dừng chân và tiếp tế nhiên liệu, Trung Quốc có thể triển khai hang ngàn
tàu cá và tàu thực thi pháp luật để đẩy người Việt Nam, Philippines, Malaysia,
và Indonesia ra khỏi vùng biển mà Bắc Kinh coi là của riêng mình.
Trung
Quốc có thể không tấn công những thực thể địa lý mà các quốc gia khác đang chiếm
đóng nhưng họ sẽ tăng cường nỗ lực bí mật kiểm soát những thực thể địa lý chưa
có người mà ở những vị trí chiến lược. Bãi Én Đất và Đá Ba Đầu ở các cụm đảo
trung tâm cũng như một vài thực thể địa lý ở phần phía đông quần đảo Trường Sa
gần Philippines sẽ tiếp tục là mục tiêu của những nỗ lực này.
Trung
Quốc có thể sẽ không chính thức tuyên bố một khu vực nhận dạng phòng không ở Biển
Đông vì một hành động như vậy có thể sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng lớn và khiến
nhiều quốc gia Đông Nam Á chống lại Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh sẽ áp đặt một số
khu vực phòng không nhỏ ở những vùng trời xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Trung Quốc cũng sẽ khẳng định một cách âm thầm rằng vùng trời bên trong đường
lưỡi bò là thuộc về họ.
Với
cơ sở vật chất đáng kể hơn trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc sẽ
thỉnh thoảng tuyên bố một số vùng an ninh, vùng đánh cá và vùng bảo vệ môi trường
ở Biển Đông. Mặc dù những vùng này có thể không phù hợp với luật pháp quốc tế,
Trung Quốc sẽ không chịu đưa tranh cãi ra toà, và vì là quốc gia mạnh nhất
trong khu vực, Bắc Kinh có thể thi hành bất cứ điều gì mà họ tự cho là hợp
pháp.
Liệu
Trung Quốc có thể đạt được ưu thế không quân và hải quân ở Biển Đông không? Như
đã đề cập ở trên, các sân bay và bến cảng ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
quá cách biệt và lộ liễu để có thể chống đỡ những cuộc tấn công lớn trong thời
chiến. Tàu Liêu Ninh, chiếc tàu sân bay duy nhất hiện nay của Trung Quốc, không
phải là đối thủ của bất kỳ tàu sân bay nào trong Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.
Mặc dù tàu Liêu Ninh sẽ được trang bị 30 máy bay chiến đấu đa chức năng SU-33
và nhiều máy bay trực thăng tác chiến chống tàu ngầm, một chiếc tàu sân bay lớp
Nimitz của Mỹ thôi cũng đã có năng lực gấp hai lần.
Nhưng
mục tiêu của Bắc Kinh dường như là muốn chiếm ưu thế trên không và trên biển
vào những lúc mà không có sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Khả năng Việt Nam tấn
công vào các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông bị hạn chế rất lớn bởi khả
năng Trung Quốc trả đũa dọc theo 1,450 km đường biên giới trên bộ. Bốn sân bay ở
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ cho phép Trung Quốc tăng thêm 30-40 máy bay
vào số máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư mà Trung Quốc có thể triển khai cùng lúc
ở Biển Đông. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc qua mặt Việt Nam và Malaysia, những
lực lượng không quân lớn nhất trong số các đối thủ Đông Nam Á. Tuy Việt Nam được
hưởng một bờ biển dài dọc theo Biển Đông nhưng hiện nay cả nước chỉ có khoảng
36 (cuối năm nay có thể có 48) máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. Malaysia nằm xa
về phía nam và hiện giờ có không nhiều hơn 50 máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư
trên toàn bộ lãnh thổ.
Ngoài
máy bay và tàu chiến, Trung Quốc cũng có thể triển khai tên lửa tới Hoàng Sa và
Trường Sa. Việc triển khai tên lửa có thể sẽ kích hoạt những phản đối kịch liệt
từ Việt Nam, Philippines, Hoa Kỳ và một số chính phủ khác, nhưng Trung Quốc sẽ
tìm một thời điểm thuận tiện để biện minh cho việc triển khai đó như là một
hành động tự vệ. Những trang thiết bị quân sự của Trung Quốc tại đó sẽ rất dễ bị
tổn thương trong thời chiến, nhưng chức năng chính của chúng dường như là để
dành cho những cuộc tuần tra thời bình và có tính đe doạ tâm lý.
Cách
tiếp cận của Trung Quốc pha trộn các yếu tố cưỡng chế với các yếu tố hợp tác, sử
dụng sự hợp tác để thu hút và bẫy đối phương vào sự cưỡng chế. Trung Quốc có thể
cung cấp các cơ sở của mình trên đảo nhân tạo cho các lợi ích chung trong khu vực.
Tháng 5 năm 2015, Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh Hải quân Trung Quốc, nói với Đô
đốc Jonathan Greenert, Tư lệnh Hải quân của Mỹ là các cơ sở trên đảo nhân tạo của
Trung Quốc có thể được sử dụng cho những hoạt động cứu nạn và cứu trợ thiên
tai. Mặc dù Hoa Kỳ đã từ chối lời rao này của Trung Quốc, Trung Quốc chắc chắn
sẽ sử dụng những thực thể địa lý còn đang trong tranh chấp này như bàn đạp cho
các hoạt động nhân đạo hay hợp tác nhằm gây sự chú ý cao và lôi kéo các quốc
gia khác trong khu vực. Đối với những quốc gia không có tranh chấp đảo hay biển
với Bắc Kinh ở Biển Đông, điều này sẽ tạo thêm một động lực để ngầm chấp nhận sự
thống trị của Trung Quốc.
Trung
Quốc có thể sẽ không cản trở các tuyến thương mại trên không và trên biển ở Biển
Đông, nhưng sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu như Trung Quốc sẽ thỉnh thoảng
chặn một số tàu thuyền và máy bay, cả dân sự lẫn quân sự, của những quốc gia phản
đối những nỗ lực bá quyền khu vực của họ. Những hành vi đó được thiết kế để tạo
ra những hiệu ứng về tâm lý hơn là hiệu ứng vật lý.
Các
hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông phù hợp với một chiến lược lớn hơn và lâu
dài mà nguyên lý trung tâm là giành quyền kiểm soát khu vực có vị trí chiến lược
then chốt này theo những cách mà có thể ngăn chặn các nước khác đáp trả tương tự.
Chiến lược này lại là một phần của một nỗ lực lớn hơn để đạt được Giấc mơ Trung
Quốc, để khôi phục lại vị trí mà Trung Quốc tự cho là chỗ đứng xứng đáng của
nó, đó là ở trên đầu các quốc gia khác. Số phận của những quốc gia trỗi dậy hiếu
chiến trong quá khứ và sự dễ bị tổn thương của các tuyến đường thương mại của
Trung Quốc cho thấy rằng chiến tranh không phải là cách để Trung Quốc đạt được
tham vọng này. Được trang bị với một truyền thống chiến lược ưa chuộng cách tiếp
cận gián tiếp, Trung Quốc đã lựa chọn một chiến lược bành trướng lắt léo để tìm
cách định hình sân chơi hơn là trực tiếp tấn công đối thủ. Đe dọa là một yếu tố
chính của chiến lược này nhưng nó là kết quả của sự áp đảo hoặc trừng phạt nặng
có chọn lọc chứ không phải là tấn công bừa bãi.
Nếu
các đối thủ của Trung Quốc không có đối sách bẻ gãy chiến lược này, Trung Quốc
sẽ nổi lên như là chúa tể của Biển Đông, ít nhất là trong nhận thức của hầu hết
các nước trong khu vực. Từ đây, sẽ chỉ còn vài bước để vươn tới vị trí bá quyền
khu vực và toàn cầu. Với thực tế là huyết mạch của nền kinh tế châu Á chạy qua
Biển Đông, và châu Á đã trở thành chấn tâm kinh tế thế giới, ai kiểm soát Biển
Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.
Chú
thích:
[2] Alexander L.
Vuving, “China’s ‘Sun-Tzu Strategy’: Preparing for Winning Without
Fighting,” South China Sea Research, June 29, 2015, https://seasresearch.wordpress.com/2015/06/29/chinass-sun-tzus-strategy-preparing-for-winning-without-fighting/
[3] Alexander L.
Vuving, “China’s Grand Strategy Challenge: Creating Its Own Islands in the
South China Sea,”The National Interest, December 8, 2014, http://nationalinterest.org/feature/chinas-grand-strategy-challenge-creating-its-own-islands-the-11807
————
Alexander
L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương,
Honolulu, Mỹ và là một chuyên gia trong lãnh vực An ninh châu Á, Biển Đông, Việt
Nam và Trung Quốc. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết phân tích
các vấn đề chính sách, chiến lược Biển Đông và quan hệ quốc tế trên các chuyên
san như Asian Survey, The Diplomat, The National Interest và website của nhiều
trường Đại học, cơ sở nghiên cứu lớn trên thế giới, cũng như là đồng tác giả của
nhiều cuốn sách trong cùng lãnh vực. Ông đồng thời là thành viên ban biên tập tờ
Chính sách và chính trị châu Á (Asian Politics and Policy) của Tổ chức nghiên cứu
chính sách. Thông tin thêm về ông: http://apcss.org/college/faculty/vuving/
Một
phiên bản được đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần ở http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20160220/chien-luoc-banh-truong-lat-leo-cua-trung-quoc/1053946.html
No comments:
Post a Comment