Thỉnh thoảng tôi chú ý có vài người vào blog tôi viết
comment một cách giận dữ. Một trong những comment đó là “bọn nguỵ bán nước”,
hàm ý cáo buộc chế độ VNCH ngày xưa là bán nước. Lại có comment kiểu như “bọn
Nam kì các anh toàn là một lũ bán nước chạy qua tận Mĩ tìm bơ thừa sữa cặn …”
Tôi có cảm giác đây là một luận điệu khá phổ biến ở những người cuồng tín.
Nhưng tôi muốn tìm hiểu cái luận điệu này nó xuất phát từ đâu.
Rất có thể cái điệp khúc “bán nước” này đã được gieo
vào đầu óc của những người ngoài Bắc từ rất lâu. Nó có thể khởi đầu từ những
bài báo và phát biểu của ông Hồ Chí Minh, một người rất hăng hái trong việc chửi
triều Nguyễn. Trong những bài viết và phát biểu về triều Nguyễn, ông Hồ đưa ra
những cáo buộc hết sức ghê gớm. Chẳng hạn như trong bài ”Nên học sử ta” đăng trên báo Việt Nam độc lập, ngày 01/02/1942, ông
viết: ”Vì muốn giành làm vua mà Gia Long
đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều, con Lạc
cháu Hồng hoá làm trâu ngựa”.
Trong ”Báo cáo
đọc tại Đại hội các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở nước ngoài” họp tại Thành
phố Liễu Châu (Tàu), vào tháng 3/1944, ông nói: ”Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước bán nước, cắt nhượng ba tỉnh Sài
Gòn, Biên Hoà, Mỹ Tho cho giặc Pháp”. Ông tố cáo Bảo Đại: ”Vĩnh Thụy trở về nước với hơn 10.000 viện
binh Pháp để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước. Vĩnh
Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc”. (Một điều thú vị là
dù chửi Bảo Đại là phản quốc như thế, nhưng sau này chính ông Hồ lại mời Bảo Đại
tham chính!)
Dễ dàng thấy những câu chữ trên rất nặng nề. Nhưng
cái mẫu số chung của các cáo buộc đó là ông hoàn toàn không trưng bày một chứng
cứ thuyết phục, mà chỉ nói ra nhận định cá nhân. Nếu là người thường mà nói như
thế thì chắc chẳng ai quan tâm, nhưng trong một thể chế toàn trị, người trong
tư cách lãnh đạo như ông Hồ mà nói như thế thì người ta hiểu đó là những chân
lí. Rồi từ đó, cái luận điệu “nguỵ bán nước” lan toả sang báo chí, tuyên truyền,
và rất có thể cả sách giáo khoa. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những
dư luận viên và ngay cả một số quan chức bị đầu độc với những từ như “bán nước”,
“tay sai”, “phản động”, và họ thốt ra những chữ đó như là những con vẹt lải nhải
theo quán tính, chứ không làm theo lí trí.
Nói theo Daniel Kahneman những người này (nói theo
quán tính) dùng hệ thống I trong phản ứng. (Hệ thống II là suy nghĩ cẩn thận và
phản ứng theo lí trí, đòi hỏi thời gian). Hễ nghe ai nói gì trái ngược với niềm
tin của họ, thì họ thốt ngay chữ “phản động”; hễ nghe người miền Nam nói về
tình hình suy thoái của xã hội, đầu óc họ phọt ngay “bán nước”. Vẫn theo
Kahneman, phản ứng theo hệ thống I được hình thành từ tiến hoá. Loại phản ứng
đó đã giúp con người thích ứng với môi trường và tồn tại trong quá khứ (như thấy
con cọp thì phản ứng đầu tiên là phải … chạy — không cần phải suy nghĩ thêm).
Tương tự, chúng ta cũng có thể đoán rằng cái phản ứng “bán nước” của DLV là hệ
quả của một quá trình tiến hoá. Cha mẹ họ đã sống trong cái xã hội bị tẩy não nặng
nề, một xã hội đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối vào một đảng phái, bất cứ ai đi ra
ngoài giáo điều sẽ dễ bị triệt tiêu. Do đó, để tồn tại trong xã hội đó, họ phải
thích ứng, phải “tụng niệm” những câu chữ quen thuộc bất kể sự thật ra sao.
Nghe nhạc vàng? Phản động. Sĩ quan VNCH? Bán nước. Và, theo thời gian cái hệ thống
I tích tụ trong đầu họ, và di truyền qua nhiều thế hệ cho đến nay.
Hiểu như thế thì chúng ta có thể thông cảm cho những
kẻ mà ngày nay vẫn còn phát biểu “nguỵ bán nước”, vì thời gian chưa đủ để họ được
tiến hoá, nên phản ứng quán tính theo hệ thống I còn lấn át phản ứng với lí trí
theo hệ thống II.
_____
TB: Nhân đây xin trích lại một đoạn trong Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến
Lê viết về tình cảnh sau 1975: Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau năm 1975 qua cuốn Hồi kí
của học giả Nguyễn Hiến Lê
Sự
khinh rẻ giữa Bắc – Nam:
Người Bắc coi người
Nam là nguỵ, đối xử người Nam như những thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”,
tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được
Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt
miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là nguỵ thì tôi mới có lí,
anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng
chiến, cách mạng đó, được Hồ Chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những
dốt về văn hoá, kĩ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không
được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy
nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào
mình là nguỵ nữa, vì nguỵ có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng
khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội
miền Bắc: bạn bè hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học
trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô
vàng…”
Và
trong chăn mới biết có rận:
Ngay giữa các đồng
chí cũng không có tinh thần đoàn kết…Chính vì thiếu đoàn kết nên trong cuộc hội
họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp
thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người
ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia
đình trị, và miền Bắc có câu này: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Cái
thất bại thứ nhì:
Điểm thứ nhì làm
cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn hồi trước nhiều.
Sự bất công (cũng
như tham nhũng) xẩy ra đầy rẫy trong xã hội, suốt cả chiều ngang lẫn chiều dọc,
điển hình là:
Có người nói một số
“ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Li để ông lớn uống
thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì
ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ
biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả…
Sài Gòn đưọc giải
phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn
giàu sang thời Thiệu,, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn,
máy điều hoà không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng
nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ năm 1975 cứ đứng yên trong khi sự
phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là
trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương
một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ
để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng như vậy. Người
nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay xở
mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà
Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần
trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!”
Cái
thất bại thứ ba:
Không ai có trách
nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên,
loạn.
Nguyên nhân là cán
nặng hơn gáo, dưới chẳng nghe trên, vì:
… mỗi tỉnh là một
tiểu quốc…
Và:
Vì mất kỉ luật cho
nên thanh niên mới trốn nghĩa vụ quân sự… Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một
phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không… trẻ em càng được thể làm biếng,
sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức
tưởng tượng. Một cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ
phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Cái
thất bại thứ tư:
Sự thất bại hiển
nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược
trên.
Từ ngày 30-4-75, do
những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của
dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai
cũng phải ăn độn có khi tới 60%-70% (tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà Nội
vào bào tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm,
mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam); có
hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng
như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà
có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn
với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người
ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem
theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.
Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vài mỗi
năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo (ở miền Nam năm 1980, có nơi mội
người chỉ được 6 tấc). Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ,
từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai…đem ra, vì ở ngoài đó thường cần
dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Con người mất nhân
phẩm
Trong một xã hội
như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hoá ra đê tiện, tham lam, bất lương,
nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các
cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ
chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không
đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng
đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà
con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa…
Đa số cán bộ ở Nam
đã tư bản hoá rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ
còn cái tên thôi.
Cái mất tình người:
Sống dưới chế độ cộng
sản, con người hoá ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để
lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng,
có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm
soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia… Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc
những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này
không chịu làm thứ mật thám chìm đó…
Nạn làm tiền, tống
tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống
táng.
Ôi chao! Ngành tống
táng? Tôi không ghi ra đây một thí dụ của ông về chuyện
này. Đại loại là nếu không có đủ tiền đút lót thì việc chôn cất hoặc hoả thiêu
người chết sẽ không được làm một cách suôn sẻ. Trong một xã hội mà ngay người
đã khuất rồi mà vẫn còn bị làm tiền thì ta không thể tưởng tượng được cái nhân
tính thời đó tệ hại ra sao. Nguyên do?
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương
rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa
một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm
ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên nguỵ dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số
người lương thiện. Và ông Phạm Văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt
thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi
heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp;
có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ
nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đoạ
của con người, sự suy sụp của kinh tế.
Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có
con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại
đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hoá mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi
xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi thốt ra lời trên chăng?
-----------------------
XIN HỎI : Hồ Chí Minh có phải là “con người xã hội
chủ nghĩa” không?
Mời đọc thêm :
Lữ
Phương 21-11-2010
Tống
Văn Công 3-12-2010
No comments:
Post a Comment