James Kraska - National Interest
Trần Văn Minh dịch
Posted by adminbasam on
16/09/2015
Trong khi Trung Quốc đi lại
một cách vô hại quanh các đảo thật của Mỹ ở Alaska, Mỹ rõ ràng không thể làm
như vậy xung quanh các đảo giả của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự qua lại vô hại của
tàu chiến Trung Quốc xuyên qua lãnh hải của đảo Attu, trong dãy đảo Aleutian,
đã cộng thêm một vết hằn nữa cho chính sách ở Biển Đông của Mỹ.
Vào ngày 12 tháng 5, báo
Wall Street Journal tường thuật rằng Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter đã yêu cầu
các thuộc cấp “xem xét các lựa chọn” để thực hiện quyền và tự do hàng hải và
hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), gồm bay máy bay tuần tra hàng hải
bên trên các đảo nhân tạo mới của Trung Quốc trong khu vực, và gửi các tàu chiến
của Mỹ tới bên trong khu vực 12 hải lý của các đảo đó. Cuối tháng đó, một máy
bay do thám P-8 mang theo một đội phóng viên của CNN, đã bị cảnh cáo liên tục từ
đá Chữ Thập phải “rời khỏi ngay lập tức”, ngay cả khi họ đã bay ở ngoài khu vực
12 hải lý của bãi đá. Đá Chữ Thập là một hòn đá nhô lên giữa biển do Trung Quốc
chiếm đóng, đã được củng cố bằng một diện tích đất bồi đắp rộng 2,7 triệu mét
vuông để trở thành một hòn đảo nhân tạo với một đường băng dài 3.110 mét và bến
cảng, có khả năng phục vụ các tàu chiến lớn.
Tàu chiến và tàu thương mại
của tất cả các nước có quyền qua lại một cách vô hại trong lãnh hải của một tảng
đá hay đảo của một quốc gia ven biển, trong khi máy bay không được hưởng quyền
như vậy. Mỉa may thay, trang báo mạng Politico tường thuật vào ngày 31 tháng 7,
rằng Tòa Bạch Ốc đã ngăn kế hoạch của Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ, để gửi tàu chiến vào khu vực 12 hải lý của các hòn đảo nhân tạo
của Trung Quốc – là những thực thể biển thậm chí không đủ điều kiện để có một
vùng lãnh hải. Với sự ngăn chặn việc quá cảnh như vậy, các viên chức quân sự nhận
biết rõ rằng Tòa Bạch Ốc đã ngầm chấp nhận tuyên bố bất hợp pháp của Trung Quốc
để kiểm soát di chuyển hàng hải xung quanh các thực thể do họ chiếm đóng ở Biển
Đông. Thượng nghị sĩ John McCain phàn nàn rằng Hoa Kỳ đang phạm một “sai lầm
nguy hiểm” bằng cách thừa nhận trên thực tế các tuyên bố “chủ quyền” của Trung
Quốc trên các đảo nhân tạo.
Hiện chưa rõ các thực thể
biển như rạn san hô Chữ Thập là đá hay chỉ đơn thuần là bãi chìm bị ngập nước
khi thủy triều lên cao, và sau khi Trung Quốc đã thay đổi toàn bộ, bây giờ khó
có thể xác định trạng thái thiên nhiên của chúng. Theo các điều khoản của luật
biển, các quốc gia sở hữu các bãi đá tự nhiên được quyền đòi hỏi lãnh hải 12 hải
lý. Mặt khác, các bãi chìm ở giữa đại dương không đủ điều kiện cho bất kỳ loại
chủ quyền biển nào. Tương tự như vậy, các đảo nhân tạo và các cơ sở trên đó
cũng không tạo ra vùng biển chủ quyền nào hay quyền chủ quyền theo luật pháp quốc
tế, mặc dù chủ sở hữu các thực thể có thể duy trì một vùng quản lý giao thông
hàng hải 500 mét để bảo đảm an toàn hàng hải.
Bất kể vị trí địa lý tự
nhiên của các thực thể biển do Trung Quốc chiếm đóng ở Biển Đông, Trung Quốc
không có quyền pháp lý với chúng. Mỗi thực thể do TQ chiếm đóng đều được một nước
khác tuyên bố chủ quyền, thường với chủ quyền rõ ràng hơn từ sự cai trị thuộc địa
của Tây Ban Nha, Anh hay Pháp. Quốc gia, chứ không phải đất, có chủ quyền, đó
là lý do tại sao không có lãnh hải xung quanh Nam Cực – Nam Cực không thuộc chủ
quyền của bất kỳ nước nào, mặc dù là một lục địa. Khi Hoa Kỳ không công nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với các thực thể, Hoa Kỳ không có nghĩa vụ chấp hành
các yêu cầu một vùng lãnh hải trên lý thuyết. Bởi vì lãnh hải là chức năng chủ
quyền quốc gia đối với mỗi hòn đá, hải đảo, và không phải là một chức năng địa
lý đơn giản, nếu Hoa Kỳ không công nhận bất kỳ quốc gia nào có quyền sở hữu đối
với một thực thể, thì Hoa Kỳ không có nghĩa vụ tôn trọng vùng lãnh hải lý thuyết
và có thể xem thực thể đó như “vô chủ”. Không những tàu chiến Hoa Kỳ có quyền qua lại trong vòng 12 hải lý của các thực thể do
Trung Quốc chiếm đóng, họ còn được tự do để làm như thế như là thực hành tự do
biển khơi theo Điều 87, Công ước Luật Biển, thay vì theo điều khoản hạn chế hơn
của sự qua lại vô hại. Hơn nữa, trong khi sự qua lại vô hại không cho phép máy
bay bay ngang qua, tự do biển khơi cho phép như thế, và máy bay hải quân Mỹ có
thể hợp pháp bay ngang qua các thực thể đó.
Để đáp lại, có thể gợi ý
rằng trong khi Hoa Kỳ có thể không công nhận quyền sở hữu của Trung Quốc đối với
những tảng đá, Hoa Kỳ phải ý thức rằng một số quốc gia, có lẽ một trong những
quốc gia ven biển thực sự nằm trong vùng lân cận của các thực thể, có chủ quyền
hợp pháp, và vì thế hải quân Mỹ bắt buộc phải nhìn nhận một vùng lãnh hải giả định.
Tuy nhiên, có thể không
nước nào có chủ quyền hợp pháp, và có thể cuộc tranh luận lòng vòng và sự ít ỏi
bằng chứng của các bên yêu sách chủ quyền đưa ra cho thấy đây là trường hợp.
Trước Thế chiến thứ Hai, rất ít, nếu có, các thực thể được một nước nào đó điều
hành một cách hiệu quả, ngoại trừ Nhật Bản đã chiếm đóng bất hợp pháp trong thời
kỳ chiến tranh. Tokyo đã từ bỏ yêu sách của họ sau Thế chiến thứ Hai. Tương tự
như vậy, hành động của các quốc gia sau năm 1945 để chiếm lấy các thực thể biển
bằng cách xâm lược vũ trang, trước mắt là bất hợp pháp theo Điều 2 (4) của Hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, những hành động của một quốc gia để củng cố yêu
sách sau khi có sự tranh chấp, cũng như thế, không có hiệu ứng pháp luật. Trong
mọi trường hợp, những tuyên bố chủ quyền mạnh nhất xuất phát từ học thuyết
“possidetis uti” [chủ quyền thuộc về sở hữu chủ thực sự], trong đó quy định rằng
sở hữu hợp pháp sẽ thuộc về các thuộc địa sau khi họ trở thành quốc gia độc lập.
Trước năm 1945, chinh phục là phương cách hợp pháp để thu nhận quyền lãnh thổ,
do đó, các cường quốc thực dân Âu châu chắc chắn có quyền sở hữu hợp pháp đối với
các thực thể mà họ kiểm soát. Philippines, Malaysia và Brunei, Indonesia, và Việt
Nam lấy lại chủ quyền đối với các thực thể từ Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan và Pháp.
Quan trọng hơn, thậm chí
giả định rằng một nước nào đó có thể có chủ quyền hợp pháp đối với một thực thể,
các nước khác không bị bắt buộc phải trao cho quốc gia đó quyền đơn phương áp dụng
và thực thi các biện pháp can thiệp vào giao thông hàng hải, cho đến khi chủ
quyền hợp pháp được giải quyết. Thật vậy, thừa nhận luật lệ của bất cứ quốc gia
nào liên quan đến các thực thể đang có tranh chấp là hợp pháp hóa tuyên bố của
quốc gia đó và chọn bên. Điểm này đặc biệt quan trọng đối với các chuyến bay
ngang của hàng không dân sự bởi vì các nước đã quản lý không lưu quốc tế thông
qua Cơ quan Hàng không Dân dụng Quốc tế và các khu vực kiểm soát không lưu trên
toàn thế giới. Cuối cùng, có một lý do về chính sách hỗ trợ tiêu chuẩn này. Với
sự gia tăng các tuyên bố chủ quyền đối với hàng trăm tảng đá, rạn san hô, đá ngầm
và cồn ở Biển Đông, nếu cộng đồng quốc tế công nhận quyền lý thuyết tối đa được
tạo ra bởi các thực thể đó, các đại dương và vùng trời sẽ trở nên giống như pho
mát Thụy Sĩ (ám chỉ vùng trời có những khu vực cấm rải rác khắp nơi) và thực tế
là sẽ đóng cửa đối với tự do hàng hải và tự do bay qua.
Sử gia nổi tiếng người Mỹ
Samuel Flagg Bemis gọi học thuyết về tự do trên biển là “quyền bẩm sinh cổ đại”
của nước Cộng hòa Mỹ. Quyền bẩm sinh này phải đối mặt với nguy cơ trầm trọng nhất
kể từ chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Woodrow Wilson đã đưa Hoa Kỳ vào Thế
chiến thứ Nhất để minh định chương trình 14 điểm cho hòa bình. Điểm số 2 là cho
“tự do hàng hải … trong thời bình và chiến tranh”. Tương tự như vậy, Franklin
D. Roosevelt và Winston Churchill đã ký Hiến chương Đại Tây Dương vào năm 1941,
là hiến chương đặt ra các nguyên tắc cho một trật tự thế giới mới – các quốc
gia liên hiệp. Nguyên tắc thứ Bảy ràng buộc họ với tự do trên biển. Quyền tự do
hàng hải và luật biển đang ở bước ngoặt. Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế phải hành
động ngay bây giờ để hoạt động với sự đều đặn trên, dưới và trên mặt nước ở Biển
Đông, kiên trì và thường xuyên trong vùng lân cận đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Chỉ có sự hiện diện bình thường ngay hôm nay mới bảo đảm được tương lai và ổn định
trong ngày mai.
Bài báo này được đăng tại
lần đầu tại đây.
No comments:
Post a Comment