Tương
Lai
21/09/2015
Chuyện học thì mênh mông, cách học cũng muôn hình
muôn vẻ. Nhưng quan trọng hơn là học cái gì. Với chuyến đi Nhật của ông Tổng
thì cũng vậy thôi. Đi để tự giới thiệu về dân về nước mình sao cho khỏi bõ công
người ta vì kính trọng dân mình, nước mình mà mời. Cho nên nếu hiểu “mình có
thế nào người ta mới mời” thì người có sự thông minh tối thiểu cũng phải hiểu
“mình” đây chính là “dân mình”, “nước mình”. Đương nhiên
muốn vậy thì dù chưa thông minh, ít nhất phải không lú lẫn.
Vậy thì dân mình cần học cái gì nhất ở người Nhật,
nước Nhật? Đây là chuyện quá lớn. Xin chỉ được nói về suy ngẫm riêng tư của một
người đã có vài lần đến Nhật. Ngoài mấy lần đi hội thảo, có một lần là khách mời
trao đổi về văn hoá cách nay khoảng mười lăm năm. Dạo ấy, trước chuyến đi, trả
lời câu hỏi của ông Đại sứ Nhật: “Điều quan trọng nhất muốn tìm hiểu về Nhật
Bản là gì?”. Không ngần ngừ, tôi nói ngay: “Muốn hiểu vì lẽ gì mà người
Nhật, nạn nhân của bom nguyên tử Mỹ lại liên minh với Mỹ nhằm xây dựng lại đất
nước để có hôm nay”. Ông Đại sứ trầm ngâm rồi hỏi lại: “Vậy ông muốn đến
những đâu trong mười ngày trên trên đất Nhật?”. “Muốn thăm một
thành phố cổ và một vài ngôi làng Nhật”, tôi nói.
Ông cười: “Thành tựu lớn nhất của Nhật là khoa học
và công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, cái đó tập trung ở các nhà máy sản xuất,
khu công nghiệp ở đô thị, sao ông lại chỉ đi thăm thành phố cổ và những ngôi
làng?”. Tôi cũng cười: “Đọc sách, xem trên màn hình, cũng có
thể nhìn thấy điều ấy. Nhưng đó là thành tựu. Tôi muốn hiểu vì đâu có thành tựu
đó. Vậy thì phải đi tìm trong truyền thống và trong trào lưu canh tân. Nói theo
ngôn từ quen thuộc của chúng tôi là đến hiện đại từ truyền thống. Vì vậy phải
trực tiếp gặp những con người, vì nói đến văn hoá cũng chính là nói đến con người.
Đến thành phố cổ và làng quê chắc dễ cảm nhận để hiểu về bản lĩnh của những con
người đã hiện đại hoá truyền thống như thế nào”.
Tượng đài Langdon
Warner, nhà khảo cổ và sử học nghệ thuật người Mỹ. Ông là người kêu gọi chính
quyền Mỹ không ném bom các thành phố mang nhiều di sản văn hóa như Kyoto
Kể về chuyến đi và những cảm nhận sẽ quá dài, xin chỉ
ghi lại một kỷ niệm giàu cảm xúc. Khi đến cố đô Kyoto (ảnh dưới), quê hương của
hơn 2.000 ngôi chùa Phật giáo và đền thờ Thần đạo, trong đó có 17 công trình
văn hóa của Nhật được đưa vào danh sách những Di sản Thế giới, tôi
được nghe một chuyện cảm động về tượng đài Langdon Warner, nhà khảo cổ và sử học
nghệ thuật người Mỹ. Ông là người kêu gọi chính quyền Mỹ không ném bom các
thành phố mang nhiều di sản văn hóa như Kyoto. Người dân Kyoto đã tạc dạ về tư
tưởng và hành động mang đậm tính văn hoá đó nên đã dựng tượng ghi ơn nhà văn
hoá Mỹ đã cứu Kyoto khỏi hoạ bom nguyên tử năm1945.
Đáng tiếc là tôi không kịp đến chiêm ngưỡng bức tượng
đó. Xin khỏi phải kể thêm về chuyến đi và những cảm nhận, chỉ nói về những suy
ngẫm từ chuyến đi đó. Chính từ chuyện bom nguyên tử này, đây là quốc
gia duy nhất trên quả đất nếm trải nỗi đau khủng khiếp ấy, tôi suy ngẫm về bản
lĩnh của người Nhật.
Fukuzawa Yukichi
Trong phạm vi hạn hẹp của một bài viết vắn, xin chỉ
tập trung vào một vấn đề: Phải chăng bản lĩnh người Nhật được đẩy lên đỉnh cao
bởi tầm nhìn khai phóng với ánh sáng tỉnh thức,được
thể hiện rõ nét trong câu châm ngôn “độc lập quốc
gia thông qua độc lập cá nhân” do
Fukuzawa Yukichi, nhà khai sáng Nhật Bản. Vâng, chỉ một câu. Với tôi đây chính
là câu cần học nhất. Đây là thời đoạn nước Nhật vừa thoát ra khỏi chế độ chuyên
chế thời Mạc Phủ với những bước đi canh tân đầu tiên thời Minh Trị.
Theo nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong xã
hội Nhật Bản cận đại ấy thì một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những
cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo, chứ không phải dựa vào ai
đó ở “bên trên”. Phải chăng tầm nhìn của nhà Khai sáng ấy đã góp phần xây đắp bản
lĩnh của người Nhật để rồi có đủ sự tỉnh táo và sáng suốt mà dám quên đi mối hận
và nỗi đau hai quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki để ký Hiệp
ước Liên minh Mỹ-Nhật (Hiệp ước San Francisco có hiệu lực từ 28.4.1952). Họ biết
và dám khai thác sức mạnh tài chính và khoa học công nghệ của cựu thù để đủ sức
xây dựng lại đất nước từ đống tro tàn của chiến tranh. Liệu việc ký Hiệp ước
San Francisco sau này có khởi nguồn từ tầm nhìn của Fukuzawa mà người ta gọi là
“Voltaire của Nhật”? Sẽ hiểu hơn về điều này nếu soi lại tiến trình canh
tân của Nhật và việc tiếp thu những thành tựu văn minh phương Tây mà Fukuzawa
là người đi tiên phong – người mà khi nghe tin có một phái đoàn sứ giả Nhật sẽ
đi Hoa Kỳ, đã đến gặp trưởng đoàn để xin đi. Chuyến đi năm 1860 ấy cùng chuyến
đi châu Âu rồi chuyến đi Mỹ sau đó nữa đã có ảnh hưởng rất lớn đến Fukuzawa để
rồi tác động đến cách nhìn, tầm nhìn của giới tinh hoa trong xã hội Nhật thời
đó để làm nên sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản.
Trong “Thoát Á luận”, Fukuzawa kêu gọi nước
Nhật hãy “tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng
ngũ các nước văn minh phương Tây”. Đương nhiên, Fukuzawa không quên chỉ ra:
“Văn minh phương Tây đúng là hơn chúng ta, nhưng không có nghĩa là cái gì của
nó cũng hoàn hảo. Văn minh phương Tây cũng đầy rẫy khiếm khuyết. Phong tục
phương Tây không phải thứ gì cũng hay ho”. Ông nói rõ, do những khác biệt về
văn hoá, một số những yếu tố đặc thù khi ở phương Tây thì hay nhưng khi du nhập
vào Nhật Bản có thể chưa phù hợp. Vì thế, phải biết bình tĩnh lựa chọn chứ
không phải là “tin tưởng một cách mù quáng văn minh phương Tây”. Để có
năng lực lựa chọn “tin cái gì và nghi ngờ cái gì”, Fukuzawa xác định rõ,
“kết quả của học vấn chính là ở chỗ nuôi dưỡng năng lực lựa chọn đó”.
Từ một nhận thức như thế, ông không ngần ngại nói
lên một sự thật nhằm cổ vũ cho một thái độ thực sự cầu thị để vượt lên khỏi sự
tăm tối lạc hậu: “Cũng khi tiếp xúc với người nước ngoài, lắng nghe họ nói,
đọc các sách phương Tây và dịch sách mới thấy kiến thức rộng mênh mông nhường
nào, lúc đó người ta mới nhận thấy rằng ngay cả chính phủ “ma quỷ
hay thánh thần” gì nữa cũng có thể bị sụp đổ bởi nỗ lực của loài
người. Có lẽ đó là lúc mà người điếc và người mù mới vểnh tai và mắt lên để có
thể nghe và nhận thấy những âm thanh và màu sắc”.
Chính vì thế, nhà khai sáng Fukuzawa (ảnh bên) kêu gọi
giới trí thức Nhật: “Chúng ta không nên tìm cách ngăn cản lại sự lan truyền
của nền văn minh ấy. Là những người trí thức, chúng ta hãy góp sức giúp cho sự
lan truyền của làn sóng văn minh đó tới toàn dân trong nước để họ thấy được và
làm quen với nền văn minh ấy càng sớm càng tốt. Làm được như vậy chính là sự
nghiệp của những người trí thức”.
Cần biết thêm rằng, tác phẩm “Khuyến học” viết
trong thời gian 1872-1876, được xem là cuốn sách gối đầu giường của người Nhật.
Lần phát hành đầu tiên đã là 3,4 triệu bản, dân số Nhật lúc ấy khoảng 35 triệu,
nghĩa là cứ khoảng 10 người Nhật có một cuốn sách. Và cuốn “Khuyến học”
đã được tái bản liên tục. Chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản
Iwanami Bunko tái bản đến 76 lần. Nếu nhớ lại một sự kiện khác: việc dịch và in
cuốn “Bàn về tự do” mang ý nghĩa khai sáng của John Stuart Mill cũng vào
thời điểm ấy sẽ hiểu thêm về trào lưu canh tân của Nhật bản đã tác động như thế
nào đến đời sống tinh thần người Nhật. Phải chăng tinh thần ấy góp phần làm nên
“chuyện thần kỳ Nhật Bản” vừa nói? Cuốn sách được viết năm 1859 ở nước Anh thì
1871 Nhật đã dịch và xuất bản với trên 2 triệu bản trên số 35 triệu dân như vừa
nói.*
Trong “Khuyến học”, Fukuzawa kêu gọi các sĩ
phu Nhật Bản làm việc theo phương châm “coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính
phủ”, tự tin vào “sức mạnh của chính mình mà không phụ thuộc vào sức
mạnh của quyền uy”. Ông chỉ ra rằng, “nếu quốc dân không có chí khí độc
lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng sẽ hàm hồ và nông cạn”.
Điểm nổi bật trong “Khuyến học” là “những bài học về tinh thần độc lập
tự cường của người Nhật Bản” mà Fukuzawa xác định đó là “điểm xuất phát
của mọi vấn đề”, là “cái quan trọng nhất và phải được coi là phần hồn của
văn minh”.
Vì sao? Vì “nếu không có chí khí độc lập, tinh thần
độc lập thì mọi hình thái của văn minh chỉ còn là hình thức, hoàn toàn vô dụng”.
Fukuzawa quyết liệt cảnh báo: “Giành được quyền
tự trị chưa phải đã là độc lập, mà nền độc lập thật sự chỉ có thể thành hiện thực
thông qua việc trở thành một quốc gia tiên tiến và văn minh. Nếu không có sự
khai sáng và văn minh, nền độc lập giành được sẽ mau chóng mất đi để rồi lại lệ
thuộc vào các quốc gia tiên tiến khác”.
Liệu có phải bản lĩnh của người Nhật khởi
nguồn từ đó? Và đó cũng chính là cái cần phải học trước tiên để rồi còn phải học
lâu dài khi dân tộc ta đang đối diện với những thách thức trong một thời điểm của
những biến động dữ dội và rất khó lường trên con đường hội nhập để phát triển.
Nhưng cũng chính vì vậy mà một vận hội mới đang mở ra với những ai có đôi mắt
biết nhìn và cái tai biết nghe với một bộ óc minh mẫn.
Kết thúc bài học một câu từ người Nhật trong đầu tôi
vụt hiện lên cũng một câu, đúng hơn là một câu đối, trong đoạn kết một truyện
ngắn trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân qua lời nói của một tử
tù vừa “cho chữ” viên quản ngục. Quản ngục này vốn có một đam mê tao nhã
là có được một đôi câu đối làm “một vật báu trên đời” bởi chính tay ông
Huấn Cao, tức là người tử tù đây, viết cho.
Xin chép ra đây lời người tử tù sau khi viết một câu
cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.
Chỗ này không phải là nơi để treo môt bức lụa trắng trẻo với những nét chữ
vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người…
Thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây,
khó giữ cái thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện đi”.
Quả thật, “giữ được cái thiên lương cho lành vững”
không dễ trong một môi trường ô nhiễm khi một số người đang nắm quyền lực cố “tự
đánh lừa mình về cái nội dung của chính mình”**. Họ không tìm thấy điểm tựa của họ trong tương
lai mà chỉ sống nhờ vào quá khứ nên không chịu để cho “người đã chết chôn cất
những người chết của mình” mà cứ “buộc những bóng ma của nó phải lang
thang một lần nữa”**.
Chính vì thế, trong tiến trình hội nhập đang có nhiều
triển vọng nhưng sự nghiệp chấn hưng đất nước vẫn bị trì kéo do cái não trạng mụ
mị vì dục vọng đen tối của thao túng quyền lực được che giấu bằng sự nguỵ biện
của ngôn từ về biện chứng của sự ngoan cố đã làm “nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện”.
Thực chất là biện chứng về sự ngạo mạn của quyền lực
vốn là kẻ thù lớn nhất của chân lý. Làm sao dấn bước canh tân khi đầu óc vẫn đặc
sệt những cái cổ hủ mà cuộc sống đã vứt bỏ. Chẳng những thế, vẫn cứ cố nhai lại
những bài học cũ rích để bám giữ bằng được cái vang bóng một thời đã
và đang lụi tàn nhưng vẫn cố đấm ăn xôi. Ác một nỗi xôi
lại hẩm!
T.
L.
Tác giả gửi BVN.
________
*Ở ta thì mãi đến năm 2000 NXB Tri Thức mới rụt rè vừa
thăm dò ý tưởng và trí tuệ sáng láng của cấp trên để dịch và phát hành 1000 cuốn
cho gần 100 triệu dân!
**C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 8.
NXB Chính trị Quốc gia, t.145, 148.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:11
No comments:
Post a Comment