Monday, 9 March 2015

Tiếng khóc vùi chôn - Phần 2 (Truyện ngắn Cao-Đắc Tuấn - Danlambao)





3/10/2015             10 Comments


TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN -
GHI CHÚ LỊCH SỬ VÀ SỰ KIỆN
Cao-Đắc Tuấn

VỤ thảm sát Huế:

Vụ thảm sát Huế được biết và ghi nhận nhiều (Chính 1998, 134-137; Willbanks 2007, 99-103; Vennema 1976; Robbins 2010, 196-208; Oberdorfer 2001, 198-235; Pike 1970, 26-31). Tuy nhiên, mặc cho sự quy mô và tàn bạo của nó, vụ thảm sát Huế hầu như không được báo cáo ở Hoa Kỳ vào lúc đó và bây giờ bị quên lãng (Braestrup 1994, 215; Robbins 2010, 196).

Mặc dù chứng cớ đầy rẫy cho một vụ thảm sát hơn hai ngàn nạn nhân, một vài học giả cãi là không có một cuộc tàn sát thực sự. D. Gareth Porter, cùng với đồng nghiệp ông ta, đăng một loạt các bài báo (Porter 1974; Herman và Porter 1975) cáo buộc các cơ quan Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bịa đặt bằng chứng trong báo cáo số người chết trong vụ thảm sát ở Huế năm 1968. Herman và Porter (1975) bác bỏ báo cáo của Douglas Pike về số dân bị giết bởi Cộng sản và kết luận rằng chữ 'thảm sát' dùng cho sự giết dân Huế của Cộng sản chỉ là một mưu đồ tuyên truyền lừa đảo (sđd., 4). Herman và Porter (sđd.) đồng ý rằng cộng sản có giết một số thường dân trong lúc họ chiếm đóng Huế, nhưng bày tỏ rằng không có bằng chứng cho thấy họ hành quyết số lớn. Một nguồn chính yếu mà Herman và Porter dựa vào để thiết lập lý thuyết họ là báo cáo của bác sĩ Alje Vennema, một bác sĩ Tây phương duy nhất đã xem xét các ngôi mộ, người, theo Herman và Porter, thấy rằng số nạn nhân trong các chỗ chôn cất bị Mỹ ở Sài Gòn thổi phồng hơn bảy lần, tổng cộng chỉ có 68 thay vì tuyên bố chính thức là 477 (sđd., 2). Herman và Porter xác định thêm rằng theo Vennema, đa số xác chết mặc quân phục và những vết thương cho thấy rằng họ là nạn nhân của cuộc chiến (sđd.). Tuy nhiên, những chi tiết Vennema cung cấp mâu thuẫn với những gì Herman và Porter báo cáo. Bác sĩ Alje Vennema, một cảm tình viên phản chiến, trình bày phiên bản riêng của ông về vụ thảm sát trong sách ông, Sự Thảm Sát tại Huế bởi Việt Cộng, xuất bản năm 1976, một năm sau bài của Herman và Porter. Trong sách ông, Vennema ghi chi tiết về vụ thảm sát. Báo cáo của ông bao gồm chứng kiến của chính ông về các mộ và các cuộc phỏng vấn các nhân chứng và những người sống sót khác.

Porter dựa vào Vennema cho kết luận ông ta rằng chính phủ miền Nam Việt Nam đã thổi phồng số các vụ hành quyết thực sự. Theo Porter, Vennema "bất chợt ở bệnh viện tỉnh Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết và là người điều tra riêng về các hầm chôn" (Porter 1974, 3). Vì vậy, báo cáo của Vennema nên tượng trưng cho các báo cáo đáng tin cậy nhất về những gì đã xảy ra tại Huế và nên là bằng chứng duy nhất đáng tin cậy nhất. Chúng ta hãy nghe những gì Vennema thực sự nói về vụ thảm sát.
Về các hầm chôn phát hiện và số lượng xác người, Vennema báo cáo những địa điểm sau đây:

1) Trường trung học Gia Hội (Vennema 1976, 129-131): Tổng số hầm chôn: 14 và thêm một số lượng hầm chôn không rõ. Tổng số xác chết: 203, gồm cả nam giới (trẻ và già) và phụ nữ. Trong số người chết là một phụ nữ 26 tuổi "với chân và tay bị trói, một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người "không có vết thương rõ ràng"; một cảnh sát 42 tuổi người đã bị chôn sống; một phụ nữ báo rao đường 48 tuổi, "cánh tay bà bị trói và một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người không có vết thương trên cơ thể, có thể là đã bị chôn sống.

2) Chùa Theravada, được gọi là Tăng Quang Tự (sđd., 131-132): 12 rãnh có 43 xác. Trong số người chết là một thợ may, tay trói và bị bắn xuyên qua đầu, một số người bị trói tay sau lưng bằng giây thép gai, và một số có miệng nhồi với giẻ rách. "Tất cả những người chết là nạn nhân bị trả thù và báo oán" (sđd., 132).

3) Bãi Dâu Con Mo (sđd., 131): 3 rãnh với 26 xác.

4) Đằng sau một chủng viện nhỏ, nơi mà tòa án tổ chức các phiên xử (sđd., 133): 2 rãnh với 6 xác (3 người Việt Nam làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ, hai người Mỹ làm việc cho USOM, và một giáo viên trường trung học Pháp nhầm lẫn là Mỹ ). "Tất cả đều bị trói tay."

5) Quận Tả Ngạn (sđd.): 3 rãnh với 21 thi thể, "tất cả là đàn ông, với hai tay bị trói, và các lỗ đạn trên đầu và cổ.

6) Năm dặm về phía đông Huế (sđd.): 1 rãnh với 25 xác, tất cả bị bắn vào đầu, tay bị trói sau lưng.

7) Gần các lăng của hoàng đế Tự Đức và Đồng Khánh (sđd., 133-135): 20 rãnh với thêm số lượng rãnh nhỏ không rõ. Tổng cộng có 203 xác được phát hiện. Trong số người chết là một linh mục Pháp, Cha Urbain, người đã bị trói hai tay và không có vết thương trên cơ thể, và linh mục khác Pháp, Cha Guy, có một vết thương đạn trên đầu và cổ. Không có xác phụ nữ và trẻ em nào được tìm thấy, cho biết rằng "các nạn nhân bị giết tàn nhẫn và không phải trong hoạt động quân sự.

8) Cầu An Ninh (sđd., 135): 1 rãnh với 20 xác.

9) Cửa Đông Ba (sđd., 135): 1 rãnh với 7 xác.

10) Trường tiểu học An Ninh Hạ (sđd., 135): 1 rãnh với 4 xác.

11) Trường Vân Chí (sđd., 136): 1 rãnh  với 8 xác.

12) Chợ Thông, một chợ (sđd., 136): 1 rãnh với 102 xác. "Đa số bị bắn và trói, trong đó có nhiều phụ nữ, nhưng không có trẻ em."

13) Trên mặt các ngôi mộ lăng hoàng đế Gia Long (sđd., 136): gần 200 xác đã được tìm thấy. Một số người có tay "bị trói sau lưng, và họ bị bắn xuyên qua đầu."

14) Nửa đường giữa chùa Tạ Quang và chùa Tu Gy Văn, 2,5 km về phía tây nam của Huế (sđd., 137): 4 xác người Đức (3 bác sĩ và một người vợ của bác sĩ).

15) Đông Gi, 16 km trực tiếp phía đông Huế (sđd.): 110 xác, tất cả là đàn ông và "hầu hết bị trói tay và giẻ nhét vào miệng."

16) Làng Vĩnh Thái, làng Phù Lương, và làng Phú Xuân, khoảng 15 km về phía nam và phía đông nam thành phố (sđd., 137-138): 3 hầm chôn với hơn 800 xác (gồm có 135 ở Vĩnh Thái, 22 Phù Lương, 230 và sau 357 tại Phú Xuân): Hầu hết là nam giới với một số ít phụ nữ và trẻ em. Trong số người chết là Cha Bửu Đồng và hai chủng sinh.

17) Làng Thượng Hòa, phía Nam lăng vua Gia Long (sđd., 139): 1 hầm chôn với 11 xác. "Các xác chết cho thấy cùng một loại vết thương ở đầu và cổ, có lẽ gây ra do hành quyết."

18) Làng Thủy Thành và Vĩnh Hưng (sđd.): hơn 70 xác, "đa số là nam giới với một số phụ nữ và trẻ em."  "Có vài người chết có lẽ là trong thời gian chiến tranh vì họ có nhiều loại vết thương và thân thể bị cắt; những người khác trưng bày vết thương duy nhất ở đầu và cổ, nạn nhân của hành quyết."

19) Khe Đá Mài (sđd.): 500 sọ. "Trong số rất nhiều những bộ xương có các mảnh quần áo bình thường, không phải vải kaki màu xanh của đồng phục Bắc Việt hoặc Việt Cộng. Tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng."

Danh sách trên của các hầm chôn cho thấy tổng cộng 19 hầm chôn và khoảng 2307 xác chết. Hầu hết trưng bày những vết thương gây ra bằng cách hành quyết và không phải bởi kết quả của chiến tranh. Nhiều người bị trói tay và giẻ nhét vào miệng. Vào cuối tháng 9 năm 1969, hàng trăm người vẫn còn mất tích (sđd., 140). Ngoài ra, Vennema lưu ý rằng "Ngoài các hầm chôn tập thể, có những sự giết người tàn nhẫn riêng rẽ" (sđd., 141).

Porter cố gắng đổ lỗi cho cuộc đánh nhau dữ dội tại một trong những bãi chôn nơi 22 xác được tìm thấy. Theo ông ta, "máy bay Mỹ ném bom xuống làng nhiều lần, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và giết thường dân" và "khoảng 250 binh lính cộng sản đã bị giết" trong trận đánh cả ngày (Porter 1974, 4). Ông ta viết thêm rằng "250 bộ xương được tìm thấy tại Khe Đá Mai (không phải 400 như lời của Pike) cũng bị giết trong trận chiến hoặc bởi B-52 Mỹ thả bom" (sđd., 5-6). Tuy nhiên, Vennema (1976, 140) xác định với độ chính xác của một bác sĩ rằng con lạch chứa 500 sọ người và "kiểm tra hồ sơ của quân đội Mỹ không tiết lộ bất kỳ hành động quy mô rộng hoặc B-52 thả bom trong khu vực ngoại trừ một trận đánh gần Lộc Sơn, khoảng 10 km cách khu vực này, vào cuối tháng Tư năm 1968." Vennema (sđd.) nói rằng "cho rằng bất kỳ người chết nào do bởi cuộc tấn công B-52 được vác qua địa hình gồ ghề để được chôn ở suối dường như không hợp lý." Ông (sđd.) tiếp tục khẳng định rằng "tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng" và "các xương khác không bị vỡ nứt thể hiện bằng chứng của gãy xương mà chắc chắn sẽ không phải là trường hợp nếu họ đã chết do bởi kết quả của chiến tranh."

Kết luận của Porter rằng "một số lớn xác phát hiện vào năm 1969 thực ra là nạn nhân của lực lượng không quân Mỹ và đánh nhau trên bộ hoành hành ở các thôn chứ không phải là do Việt cộng" (Porter 1974, 6) mâu thuẫn với lời khai của một bác sĩ nhân chứng mà chính Porter dựa nhiều vào.

Nhiều nguồn khác cung cấp các ước tính phù hợp với báo cáo của Vennema. Bùi Tín (Bui 2002, 66), một cựu đại tá của quân đội Bắc Việt, xác nhận rằng vụ thảm sát Huế có xảy ra. Theo ông, Đại tá Lê Minh, trưởng khu an ninh cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968, ước tính số người chết là 2.000, nhưng ông nói thêm rằng con số đó có thể thấp. Các ước tính khác báo cáo 2.500 đến 3.500, đa số là thường dân hoặc gia đình các viên chức chính quyền Sài Gòn (Prados 2009, 240; Hammel 2007, 159); 2.800 bao gồm cả viên chức chính phủ, chiến sĩ, giáo viên, linh mục, trí thức và các người phản động khác, và thường dân không may mắn, với một số nạn nhân bị bắn, đập chết, và thiêu sống (Braestrup 1994, 215; Isaacs 1984, 360; Oberdorfer 2001, 232; Pike 1970, 30-31). Woodruff (2005, 244) cho biết tổng số 2.810 xác dần dần được tìm thấy trong những mổ tập thể nông vào giữa những năm 1970. Ngoài ra, 1.946 người vẫn còn mất tích Những con số này có vẻ được lấy từ bài chuyên khảo của Pike (Pike 1970, 30-31). Một tài liệu, tuyên bố là lấy được từ Cộng sản, báo cáo số nạn nhân bao gồm 1.892 nhân viên hành chính, 38 cảnh sát, 790 tên bạo ác, 6 đại úy, 2 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều hạ sĩ quan (Woodruff 2005, 244; Willbanks 2007, 101).

Trong khi chắc chắn rằng Hồ chấp thuận, mặc dù có thể chỉ trên hình thức, quyết định khởi động cuộc tổng nổi dậy (Duiker 2000, 557), không rõ là ông ta có đặc biệt thông qua kế hoạch dùng bạo lực cách mạng trên dân Huế. Theo Bùi Tín (Bui 2002, 68), cuộc thảm sát xảy ra vì quân đội Bắc Việt trở thành cuồng loạn, và bị mất hướng - và mất cả nhân tính. Bùi Tín (sđd., 67) khẳng định rằng không có lệnh từ cấp trên đòi hỏi tiêu diệt cả tù binh hay thường dân. Theo Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Cộng, Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng sản (Provisional Revolutionary Government - PRG), nói rằng hoàn toàn không có chính sách hay chỉ thị của Mặt trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào, nhưng Tảng thể hiện rằng ông không thấy điều giải thích này đặc biệt thỏa đáng (Truong 1986, 154). Tuy nhiên cả Bùi Tín lẫn Trương Như Tảng có vẻ không biết đến tòa án nhân dân và những bản án tử hình giao xuống các nạn nhân. Tính chất của việc chuẩn bị cho các vụ thảm sát, gồm chuyện tập hợp dân chúng từ các danh sách đen và sự tổ chức tòa án nhân dân, rõ ràng cho thấy vụ thảm sát là một hoạt động có dự tính với những mục đích chính xác và rõ rệt, ra lệnh từ, và được hỗ trợ bởi, chỉ huy cao cấp của Bộ Chính trị Hà Nội (Robbins 2010, 196; Oberdorfer 2001, 232; Vennema 1976, 183), hoặc ít nhất là Hồ có thể đoán trước và mong muốn (Hubbell 1968, 67). Vennema (1976, 184) lưu ý rằng kích động khủng bố là quan trọng với Đảng cộng sản và các thành viên cộng sản không thể kềm hãm được. Robbins (2010, 208) ghi rằng vụ thảm sát Huế không phải là một hành động tự phát của sự quá đáng mà là một thực hiện tàn nhẫn của chính sách cộng sản Bắc Việt.

Báo cáo về các cuộc tàn sát và sự hiện hữu của tòa án nhân dân được nhiều nhân chứng tường thuật (Robbins 2010, 198; Vennema 1976, 94) Trong một báo cáo, Phan Văn Tuấn, lúc đó 16 tuổi, bị bắt bởi VC và bị ra lệnh đào mồ chôn sống một số nạn nhân. Ông mô tả kinh nghiệm của mình trong một cuộc phỏng vấn (Vimeo 2008). Trong một báo cáo khác, bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể lại chuyện bà chứng kiến Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giết tàn nhẫn anh bà (DLB 2013). Bà cũng mô tả vụ Nguyễn thị Đoan Trinh sát hại các nạn nhân vô tội. Theo nhiều nguồn tin, một tòa án ngoài trời được chủ trì bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Gia Hội ở Quận II, là một quan tòa để ra án tử hình cho 203 người (Vennema 1976, 94). Một người, Nguyễn Đắc Xuân, cũng tham gia vào việc giết các nạn nhân vô tội. Tường, Phan, Đoan Trinh, và Xuân là phần một lực lượng chính trị được tổ chức trong lúc Cộng sản chiếm đóng tạm thời một phần của Huế. Lực lượng chính trị này được gọi là Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình (Chính 1998, 131-132). Một số nạn nhân bị bắn tàn nhẫn, đôi khi với tội phạm tầm thường (Vennema 1976, 94). Tòa án tại Gia Hội được biết bởi các cư dân địa phương, những người ẩn núp sau khi ra tòa lần đầu và sau đó sống sót, hoặc trốn thoát (sđd.). Sau phiên toà này, toàn bộ trường học cuối cùng mang lại 203 thi thể của các thanh niên trẻ, những người đàn ông lớn tuổi, và phụ nữ (sđd.). Cũng nên lưu ý rằng Gia Hội không phải là nơi duy nhất mà một tòa án được tổ chức. Các cuộc xử tòa ngoài trời khác được thực hiện dưới danh nghĩa nhân dân và cách mạng, nơi mà lời tuyên án và bản án được những người không có quyền hạn pháp luật đưa ra (sđd., 185). Thông thường, một cán bộ chủ trì làm quan tòa, và cũng là luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn, và người hành quyết (sđd.).

Trận chiến tại thành Huế:

Trận chiến tại Huế được các tác giả Mỹ mô tả rộng lớn. Các quy luật tham chiến mà không cho phép dùng không lực gây ra rất nhiều phẫn nộ cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (Nolan 1996, 140; Warr 1988, 100-102, 123, 125). Hỗ trợ máy bay không được cung cấp cho đến sau này trong trận (Warr 1988, 153).


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM CHIẾU


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

Braestrup, Peter. 1994. Big Story – How the American Press and Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet 1968 in Vietnam and Washington. Abridged Edition. Presidio Press, California, U.S.A.

Bui Tin. 2002. From Enemy to Friend, A North Vietnamese Perspective on the War, Naval Institute Press, Maryland, U.S.A.

Chính Đạo. 1998. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại (Tet Offensive 68: Victory or Defeat). Tái bản có bổ sung (Reprinted with supplements). Văn Hóa, Houston, Texas, U.S.A.

Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh: A Life. Hyperion, New York, U.S.A.

Hammel, Eric. 2007. Marines in Hue City: A Portrait of Urban Combat, Tet 1968, Zenith Press, Minnesota, U.S.A.

Herman, Edward and D. Gareth Porter. 1975. The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Vol. 13, No. 8, May-June.

Hubbell, John G. 1968. The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh. Reader’s Digest, November 1968, 61-67.

Isaacs, Arnold R. 1984. Without Honor: Defeat in Vietnam & Cambodia, Vintage Books, New York, U.S.A.

Nolan, Keith William. 1996. Battle for Hue: Tet 1968. Presidio Press, California, U.S.A.

Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The Turning Point in the Vietnam War, The Johns Hopkins University Press, Maryland, U.S.A.

Pike, Douglas. 1986. PAVN – People’s Army of Vietnam. Da Capo Press, New York, U.S.A.

Prados, John. 2009. Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975, University Press of Kansas, Kansas, U.S.A.

Robbins, James S. 2010. This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive, Encounter Books, New York, U.S.A.

Truong Nhu Tang (with David Chanoff and Doan Van Toai). 1986. A Viet Cong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath, Random House, Inc., New York, U.S.A.

Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.

Warr, Nicholas. 1988. Phase Line Green: The Battle for Hue, 1968, US Naval Institute Press, U.S.A.

Willbanks, James H. 2007. The Tet Offensive: A Concise History, Columbia University Press, New York, U.S.A.

Woodruff, Mark W. 2005. Unheralded Victory: The Defeat of the Viet Cong and the North Vietnamese Army, 1961-1973, Presidio Press, New York, U.S.A. 2005.


NGUỒN INTERNET

Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.

DLB (Dân Làm Báo). 2013. Mậu Thân Huế - Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa (The Year of the Monkey at Huế – Story of Nguyễn Thị Thái Hòa) http://danlambaovn.blogspot.com/2012/01/mau-than-hue-cau-chuyen-cua-nguyen-thi.html (accessed September 29, 2013).

Porter, Gareth D. 1974. The 1968 ‘Hue Massacre.’ Indochina Chronicle, No. 33, June 24, 1974, pp 2-13. http://msuweb.montclair.edu/~furrg/Vietnam/porterhueic74.pdf (accessed September 29, 2013).

Vimeo. 2008. Nam Dao pv Phan Van Tuan: Mau Than - Anh Con Nho Hay Anh Da Quen (Nam Dao interviewing Phan Van Tuan: The Year of the Monkey - Do you still remember or do you forget). http://vimeo.com/9093448 (accessed September 30, 2013).


TÊN NHÂN VẬT VÀ CÁC TÊN KHÁC
  
Hai: (hư cấu) Một người bị bắt bởi VC và quân BV trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Lê Minh: Trưởng An ninh của cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Lê Thị Trang Tiết: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia trong vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào nhân vật có thật Nguyễn Thị Đoan Trinh, người cáo buộc là sát thủ của nhiều thường dân Huế vô tội.

Liên minh Nhân dân Dân chủ và Hòa Bình: Một liên minh được thành lập bởi những người Cộng sản trong cuộc tổng tấn công Tết tại Huế trong năm 1968.

Lộc: (hư cấu) bị giam cầm bởi VC và quân Bắc Việt trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Mai Dinh Châu Cát: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế năm 1968. Dựa vào nhân vật có thật Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ bị cho là chủ tịch Tòa án nhân dân tại trường trung học Gia Hội đã kết án 204 thường dân vô tội với án tử hình và ra lệnh chôn sống nạn nhân trong sân trường.

Miller, Brad: (hư cấu) Hạ sĩ (1968), Đại đội Hotel, Tiểu đoàn 1, Thủy quân lục chiến (trung đoàn) 5, bạn của Trần Ngọc Toàn (hư cấu).

Nguyễn Đức Thắng: (hư cấu) Một nạn nhân bị kết án tử hình trong Toà án Nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Phạm Đình Phú: (hư cấu): Một học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo (hư cấu), bị kết án lao động trong Toà án nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Trần Ngọc Toàn: (hư cấu): Thiếu úy (1968), Đại úy (1975), Sư Đoàn 1 QLVNCH. Một trong những thuyền nhân năm 1980, chồng của Liên, cha của Trần Ngọc Kiệt (hư cấu), Ông nội của Madeline (Mê Linh) Trần và Melanie Trần.

Trần Thất Thu: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào các nhân vật có thật Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan, bị coi là sát thủ nhiều thường dân Huế vô tội.

Trần Văn Duyệt: (hư cấu) Một học sinh 16 tuổi, bị kết án lao động tại Toà án nhân dân trong vụ thảm sát Huế năm 1968.

Việt Cộng: VC. Một tổ chức quân đội cộng sản miền Nam Việt Nam. Chiến đấu chống Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam (1959-1975).

Vũ Tấn Phong: (hư cấu) Một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, bị giết bởi Trần Thất Thu (hư cấu) năm 1968.

Vũ Thị Lan: (hư cấu) Một sinh viên tại Đại học Huế, bạn gái của Trần Ngọc Toàn (hư cấu), em gái Vũ Tấn Phong (hư cấu). Cô là một trong những nạn nhân bị chôn sống trong vụ thảm sát Huế năm 1968.

©
2014 Cao-Đắc Tuấn



-----------------------------------

BẢN TIẾNG ANH :








No comments:

Post a Comment

View My Stats