George Weigel, First
Thing
Cuồng Phong, CTV
Phía Trước chuyển ngữ
Posted on Feb 9, 2015
Giáo
sư Thomas Farr, thuộc trung tâm nghiên cứu Berley (Georgetown) được
coi là một trong những nhân vật chính diện trên chính trường Washington. Bản điều
trần của ông vào ngày 13 tháng 6 trước Tiểu ban An ninh Quốc gia thuộc Ủy ban của
Hạ Viện về Giám sát và Cải cách Chính phủ đã phản ánh một cách tỉnh táo và sâu
sắc về thất bại của Mỹ trong chính sách tự do tôn giáo quốc tế.
Farr là người có đủ thẩm quyền và tư cách để phát biểu
về vấn đề này, vì ông từng là chủ nhiệm đầu tiên của Văn phòng Tự do Tôn giáo
Quốc tế của Bộ Ngoại Giao Mỹ những năm 1999-2003 và đã tham gia sâu vào công cuộc
đấu tranh giành tự do tôn giáo trên toàn cầu từ ngày đó đến nay. Ông làm việc
đó, vừa xuất phát từ niềm xác tín rằng “đây là việc làm đúng đắn”, vừa từ 1 nhận
định khôn ngoan về mặt chính sách: tự do tôn giáo thúc đẩy hòa bình, vì những
quốc gia vi phạm quyền tự do quan trọng nhất này hầu hết lại đều là những quốc
gia mà sự ổn định trong nước, chính sách kinh tế, và chính sách ngoại giao có
liên quan mật thiết đối với lợi ích của Mỹ.
Do vậy, nếu việc thúc đẩy tự do tôn giáo ở ngoài nước
(giống như việc bảo vệ quyền này ở trong nước) là hướng đi vừa đúng đắn vừa
khôn ngoan, thì tại sao Mỹ lại thực hiện kém cỏi như vậy?
Theo bản điều trần của Farr, tại sao “việc nêu tên
được 1 quốc gia trên thế giới trong suốt hơn 15 năm qua, nhờ sự giúp đỡ từ
chính sách tự do tôn giáo của Mỹ đã giảm bớt đàn áp tôn giáo hay gia tăng tự do
tôn giáo một cách đáng kể hay bền vững lại khó khăn đến thế?”. Thực tế là, điều
ngược lại mới đúng: đó là “trong số hầu hết các quốc gia mà Mỹ đổ tiền bạc,
xương máu và cả các nguồn lực về ngoại giao (như I-rắc, Afghanistan, Pakistan,
Ai Cập, Trung Quốc, Ả-rập Xê-út và Nga), mức tự do tôn giáo lại đang tụt dốc,
còn các vụ đàn áp tôn giáo thì gia tăng.”
Farr đưa ra 1 số nguyên do về mặt cấu trúc.
Đầu tiên, Mỹ tiếp cận vấn đề tự do tôn giáo quốc tế
một cách cực kỳ khoa trương: đưa ra các báo cáo hàng năm, các bài phát biểu,
công bố danh sách những người phải chịu trách nhiệm về việc đàn áp tôn giáo.
Tuy nhiên, những điều này lại chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới các thủ phạm.
Từ điều này lại gợi ý tiếp cho ta một nguyên nhân
khác nữa về mặt cấu trúc, lý giải vì sao những nỗ lực xúc tiến cho tự do tôn
giáo trên thế giới, được quốc hội ủy nhiệm, vẫn không đem lại kết quả: nó đã
không được tính toán kỹ về mặt chiến lược. Hoặc như Farr đã khẳng định thẳng thừng
rằng không một tổng thống hay ngoại trưởng nào có sự phối hợp, cố gắng liên tục
để hợp nhất việc thúc đẩy tự do tôn giáo với chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ
khi Đạo luật Tự do Tôn giáo Toàn cầu được thông qua năm 1998.
Vì vậy, hầu hết các chuyên gia trong ngành ngoại
giao của Mỹ đã không dành sự quan tâm thích đáng cho tự do tôn giáo như một phần
của chính sách đối ngoại. Thực vậy, Tom Farr đã xác nhận: “những nhà ngoại giao
của chúng ta đã không được đào tạo để hiểu thế nào là tự do tôn giáo, tầm quan
trọng của tự do tôn giáo, chưa kể tới là làm sao để thúc đẩy tự do tôn giáo. Và
nếu như các quan chức cấp cao ở nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao không đòi hỏi việc lập
kế hoạch chiến lược chính sách phải bao gồm các vấn đề tự do tôn giáo, thì thái
độ hoài nghi vốn đã bắt rễ sâu trong trong việc thiết lập chính sách ngoại giao
về tầm quan trọng đích thực của tự do tôn giáo đối với với các cá nhân và xã hội
(thái độ hoài nghi giúp củng cố quan điểm chính trị thực tiễn rằng tự do tôn
giáo không phải là chính sách ngoại giao đích thực) sẽ vẫn là quan điểm được mặc
định trong giới ngoại giao.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn đề có liên quan
khác, về mặt cấu trúc. Văn phòng tự do tôn giáo quốc tế được thành lập trong Bộ
Ngoại giao theo sự ủy quyền của quốc hội, với cơ chế quan liêu của nó, như mọi
định chế quan liêu khác, nó đặc biệt khéo léo trong việc bưng bít bất kỳ vấn đề
gì mà cơ quan này cho là không thuộc mối quan tâm của nó, khiến cho việc lên kế
hoạch nghiêm túc về chính sách không thể thực hiện được. Vì vậy văn phòng và đại
sứ đặc mệnh về vấn đề tự do tôn giáo quốc tế (chức vụ đã được quốc hội ủy quyền)
thường bị cô lập bên trong chính phủ, bị cắt giảm ngân sách, và giới hạn việc
tiếp xúc với bộ trưởng bộ ngoại giao và các quan chức có thực quyền đưa ra
chính sách.
Như tiến sĩ Farr kết luận sau khi quan sát bao quát
khung cảnh ảm đạm này: “Hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà ngoại
giao Mỹ và các chính phủ nước ngoài không nhìn nhận tự do tôn giáo là một ưu
tiên trong chính sách ngoại giao của Mỹ. Không có gì ngạc nhiên khi tự do tôn
giáo đóng vai trò rất nhỏ hoặc thậm chí không có vai trò nào trong chiến lược của
Mỹ để giúp làm ổn định cho các nền dân chủ non trẻ còn đang phải vật lộn để tồn
tại, như ở I-rắc hay Pakistan, khuyến khích tăng trưởng kinh tế ở những nơi như
Ai Cập hay Nigeria, hoặc ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố mang tính chất tôn giáo
mà vẫn âm thầm sinh sôi ở nhiều quốc tại vùng Đại Trung Đông.
Tự do tôn giáo là đúng đắn. Tự do tôn giáo là khả
thi. Nhưng việc thúc đẩy quyền tự do này vẫn bị gạt ra bên lề trong chính sách
đối ngoại của Mỹ. Điều đó rõ ràng là vừa không đúng đắn, vừa không khôn ngoan.
Copyrights
© 2007-2014 TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment