Đăng ngày 03-02-2015 Sửa đổi ngày 03-02-2015 12:06
«Cuộc
chiến dầu hỏa trên biển», từ châu Á đến vùng biển Caribê, thế giới đang lao vào
cuộc chạy đua khai thác dầu khí ở các vùng biển nước sâu. RFI tiếng Việt lược dịch
bài phân tích đăng trên nguyệt san Le Monde Diplomatique tháng 2/2015 của Giáo
sư Michael T.Klare, chuyên gia về hòa bình và an ninh quốc tế, giảng dậy tại đại
học Hampshire College- Anh Quốc.
Đầu tháng 5/2014 Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương
981 (HYSY-981) vào vùng biển có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. Sự kiện đó
làm dấy lên nhiều tranh luận về động lực của Bắc Kinh. Theo quan điểm của nhiều
nhà phân tích phương Tây, động thái nói trên nhằm chứng tỏ Trung Quốc muốn áp đặt
quyền kiểm soát đối với khu vực này và làm nản lòng một số các quốc gia khác khẳng
định chủ quyền ở Biển Đông, trong đó có Philippines và Việt Nam.
Theo bà Erica Downs, chuyên gia về Trung Quốc thuộc
viện nghiên cứu Brookings Institution của Mỹ, việc đưa giàn khoan vào vùng biển
có tranh chấp chủ quyền « nằm trong khuôn khổ một loạt các hành động của những
năm gần đây để Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với các vùng biển đang có
tranh chấp ». Chuyên gia này đặc biệt chú ý đến việc Trung Quốc chiếm bãi đá
Scarborough, một mỏm đá không có người ở mà cả Bắc Kinh lẫn Manila cùng khẳng định
chủ quyền, cũng như những hành vi sách nhiễu được lập đi lập lại nhắm vào các
tàu tuần duyên của Việt Nam.
Đối với một số các chuyên gia khác thì việc đưa giàn
khoan vào vùng biển có tranh chấp biểu thị đà vươn lên của Trung Quốc như một
cường quốc khu vực. Trong quá khứ Trung Quốc không đủ khả năng bảo vệ các phần
lãnh hải, nhưng giờ đây thì quốc gia này có đủ phương tiện để bảo vệ bờ cõi.
Đành rằng đằng sau vụ đưa giàn khoan vào vùng biển
có tranh chấp còn có những yếu tố dân tộc chủ nghĩa và địa chính trị. Nhưng
cũng đừng quên rằng, Trung Quốc có những tính toán hết sức thực dụng, bởi đó là
một vùng giàu tài nguyên, đặc biệt là dầu hỏa và khí đốt.
Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc không ngừng gia
tăng. Bắc Kinh mệt mỏi khi phải chi ra một số tiền ngày càng lớn cho các nhà
cung cấp không có mức độ tin cậy cao như các đối tác ở châu Phi hay Trung Đông.
Trong bối cảnh đó Trung Quốc hướng về các nguồn dự trữ ở sát ngay bên cạnh, kể
cả tính tới việc khai thác dầu khí ngoài khơi Biển Đông và Hoa Đông. Trung Quốc
hy vọng độc quyền kiểm soát các hoạt động khai thác dầu khí đó.
Bắc
Kinh – Đài Bắc cùng tần số
Cho tới nay việc thăm dò ở các vùng biển nước sâu
hãy còn giới hạn. Thực chất về trữ lượng dầu khí ở các vùng đại dương còn chưa
được thẩm định một cách chính xác. Theo báo cáo (được công bố hồi tháng 2/2014)
của Cơ qua Thông tin về Năng lượng (Energy Information Administration -EIA), trực
thuộc bộ năng lượng của Hoa Kỳ, Biển Hoa Đông, có tiềm năng ẩn chứa khoảng từ
60 đến 100 triệu thùng dầu và khoảng từ 28 đến 56 tỷ mét khối khí đốt. Nhìn từ
phía các chuyên gia Trung Quốc thì trữ lượng đó còn lớn hơn rất nhiều so với
các con số được cơ quan Mỹ EIA đưa ra.
Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào công tác khai
thác dầu ở các vùng biển nước sâu để giảm bớt mức độ lệ thuộc vào các nguồn
cung cấp nước ngoài. Tập đoàn dầu khí CNOOC đã chi ra 6 tỷ nhân dân tệ - hơn
830 triệu euro để xây dựng giàn khoan Hải Dương -HYSY 981. Đây là giàn khoan nửa
chìm nửa nổi đầu tiên của Trung Quốc.
Bắc Kinh khẳng định chủ quyền đối với 90 % diện tích
ở vùng Biển Đông, căn cứ trên bản đồ 9 đoạn. Bốn quốc gia khác trong khu vực, gồm
Brunei, Malaysia, Việt Nam và Philippines cùng khẳng định chủ quyền đối với các
vùng đặc quyền kinh tế trong vùng biển này. Đài Loan có cùng quan điểm với
Trung Quốc. Đài Bắc cũng căn cứ trên bản đồ 9 đoạn để khẳng định chủ quyền ở Biển
Đông.
Tại vùng Biển Hoa Đông đến nay Trung Quốc và Nhật Bản
tương đối tôn trọng lằn ranh phân chia hải phận giữa hai nước. Vấn đề đặt ra là
gần đây, nhiều tàu thăm dò của Trung Quốc vẫn đến thăm dò và khai thác khí đốt ở
sát đường biên giới trên biển đó. Hoạt động khai thác có khi lấn qua cả sang
lãnh hải Nhật Bản.
Cuộc đọ sức Nhật- Trung trên Biển Hoa Đông phản ánh
một cuộc chạy đua để cùng tìm kiếm dầu hỏa và khí đốt. Nhất là vào thời điểm mà
Cơ quan năng lượng EIA của Hoa Kỳ dự phóng, dự trữ về dầu khí trên thế giới có
nguy cơ giảm đi đến 2/3 từ năm 2011 đến 2035. Nhưng để bù lại thì thế giới đã
phát hiện ra những nguồn dự trữ mới còn trinh nguyên. Bắc Cực và các vùng biển
nước sâu là những địa điểm có nhiều tiềm năng về dầu khí.
Tranh chấp chỉ xảy ra trong trường hợp các vùng lãnh
thổ hay lãnh hải có nhiều tiềm năng về dầu khí không nằm trong vùng đặc quyền
kinh tế của một quốc gia. Tranh chấp thường nổ ra tại các vùng biển khá khép
kín, như tại khu vực Biển Caribê, Caspi hay Địa Trung Hải. Ranh giới trên biển
cũng không dễ phân định.
Về mặt pháp lý, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển,
ra đời từ năm 1982 rất phức tạp và thường được diễn giải theo những cách khác
nhau. Tranh chấp ở vùng Biển Hoa Đông giữa Nhật Bản và Trung Quốc rơi vào trường
hợp này. Nhưng bên cạnh đó Liên Hiệp Quốc đã thành lập một tòa án đặc biệt, -
Tòa án Quốc tế về Luật Biển- để giải quyết tranh chấp. Vấn đề đặt ra là nhiều
quốc gia không công nhận Tòa án đó. Do vậy các tranh chấp kéo dài có nguy cơ dẫn
tới xung đột võ trang.
Năm 1982 xung đột đẫm máu đã xảy ra giữa Anh Quốc với
Achentina ở khu vực quần đảo Malouines. Luân Đôn và Buenos Aires, sau đó đã tìm
cách chung sống trong hòa bình, nhưng vẫn chưa giải quyết dứt điểm tranh chấp về
chủ quyền đối với quần đảo này. Có điều, những khám phá gần đây cho thấy,
Malouines là một vùng có nhiều tiềm năng về dầu hỏa và khí đốt. Và đó lại là mầm
mống làm dấy lên căng thẳng giữa Anh Quốc với Achentina.
Cùng
phát triển các vùng đang có tranh chấp
Tình hình còn nguy hiểm hơn tại các vùng phía đông Địa
Trung Hải, nơi Israel, Liban, Syria, Chypre, Cộng hòa Chypre phương Bắc của Thổ
Nhĩ Kỳ cũng như chính quyền Palestine ở Gaza đều tuyên bố có chủ quyền đối với
các dự trữ đầy hứa hẹn về dầu và khí đốt. Theo Văn phòng nghiên cứu địa chấn
Hoa Kỳ (United States Geological Survey), vùng lòng chảo Liban – Irak, tương
đương một phần tư diện tích vùng cực đông Địa Trung Hải, dường như có dự trữ
khí đốt được đánh giá lên tới 3 400 tỷ mét khối, tức là gần bằng tổng dự trữ
khí đốt được thẩm định của Irak. (Theo US Geological Survey, bài «Tiềm năng được
thẩm định về khí đốt ở phía đông Địa Trung Hải » - USGS Newsroom, Washington
DC, ngày 08/04/2010).
Vào thời điểm hiện nay, Israel là nhà nước duyên hải
duy nhất khai thác một cách có hệ thống các dự trữ này. Việc sản xuất được bắt
đầu hồi tháng 03/2013, ở mỏ khí tự nhiên Tamar và Tel Aviv dự tính khai thác
khu khí đốt Léviathan, rộng lớn hơn. Dự án này gây ra phản ứng mạnh mẽ từ phía
Liban, nước tuyên bố có chủ quyền đối với một phần vùng biển này. Trong khi đó,
Chypre lại cấp giấy phép cho tập đoàn Mỹ Noble Energy, tập đoàn Pháp Total, tập
đoàn Ý Eni, lập các giàn khoan trên phần biển thuộc chủ quyền của mình và dự
tính tiến hành sản xuất trong những năm tới. Trong vụ này, chính quyền Ankara,
vốn ủng hộ nước Cộng hòa Chypre phương Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, đã lên án mạnh mẽ các
quyết định của Chypre.
Những cuộc xung đột tương tự cũng đã nổ ra ở những
vùng biển giàu tài nguyên, trong đó có Biển Caspi (nơi Iran chia sẻ đường biên
giới trên biển đang gây tranh cãi với Azerbaidjan và Turkmenistan) và những
vùng biển ở phía đông bắc bờ biển phía nam Châu Mỹ (nơi Guyana và Venezuela
cùng tuyên bố có chủ quyền đối với một vùng khoan thăm dò có tiềm năng). Trong
tất cả các cuộc tranh cãi này, chủ nghĩa dân tộc quá khích kết hợp với nhu cầu
tìm kiếm vô hạn độ các nguồn năng lượng có thể dẫn tới quyết tâm giành chiếm
các nguồn tài nguyên này một cách quyết liệt.
Thay vì xem xét các kiện tụng này như một vấn đề có
tính hệ thống, đòi hỏi một chiến lược cụ thể để giải quyết, các cường quốc lớn
đã có xu hướng đứng ra ủng hộ các nước liên minh của họ. Do vậy, chính quyền Mỹ
của Tổng thống Barack Obama, mặc dù tuyên bố là trung lập trên vấn đề quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư, ở Biển Hoa Đông, nhưng đã nhiều lần khẳng định là họ ủng hộ
Nhật Bản, nước quản lý các đảo này và đồng thời lại cam kết hỗ trợ Nhật Bản
trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công. Bắc Kinh đã tố cáo lập trường của
Washington và coi đó là một sự đối đầu không thể chấp nhận được. Điều đó lại
càng gây khó khăn cho việc thuyết phục các bên tranh chấp ngồi vào bàn đàm phán
để tìm kiếm một giải pháp thỏa hiệp và như vậy, tránh làm cho mọi việc trở nên
xấu hơn.
Để tháo gỡ mối nguy hiểm nói trên, cần đưa ra nhiều
sáng kiến như giải thích chính xác hơn các quyền của những quốc gia duyên hải đối
với vùng đặc quyền kinh tế ở ngoài khơi, gạt bỏ những điểm không rõ ràng trong
các điều khoản của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, quốc tế nỗ lực phối hợp
để thiết lập các định chế trung lập có thể giúp tìm kiếm một giải pháp cho các
tranh chấp, thông qua các cuộc đàm phán hòa bình.
Trong khi chờ đợi thực hiện các biện pháp như vậy,
các bên liên quan trong các vụ đối đầu này cần phải dự tính đến việc cùng nhau
phát triển các khu vực đang có tranh chấp. Đây là một chiến lược mà Malaysia và
Thái Lan đã thực hiện tại vùng vịnh Thái Lan, cũng như Nigeria và Sao-Tomé và
Principe tại vùng vịnh Guinéa. Do thiếu vắng những nỗ lực theo hướng này, các
tranh chấp trên biển, vốn trở nên căng thẳng do vấn đề nguồn nhiên liệu có thể
làm đảo lộn thế kỷ 21, giống như các cuộc xung đột biên giới trên đất liền đã
gây ra trong các thế kỷ qua.
No comments:
Post a Comment