Vũ
Quang Việt - Diễn Đàn
20-1-2015
Lời
nói đầu:
Ngày
đầu năm nay, theo báo Hải quan, “Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt
Nam, Ngân hàng Công Thương Trung Quốc vừa có kiến nghị gửi một số cơ quan chức
năng ở Việt Nam đề nghị cho phép mở rộng phạm vi giao dịch đồng Nhân dân tệ”.
Thông tin này đã được báo chí (cả chính thống và “ngoài lề”) đăng lại, và bình
luận (cả về các khía cạnh kinh tế và chính trị) – như trong bài
này của TS Lê Đăng Doanh. Do phản ứng chống đối gần như nhất trí của báo
chí Việt Nam mà phía Trung Quốc đã rút lại đề nghị, hay thực ra thông tin của
báo Hải quan không chính xác, nên sau vài ngày “nóng” thì sự việc có vẻ như đã
chìm xuống. Chìm nhưng có thật là không có gì đằng sau? Chúng tôi nhận được bài
dưới đây của TS Vũ Quang Việt, với vài “lời nói đầu” như sau:
Tác
giả nghe tin không chính thức là phía TQ không nói với phía VN như báo đã đăng.
Nội dung kiến nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp TQ với VN như thế nào vẫn chưa được
công bố và báo chí VN đưa tin về kiến nghị của phía TQ vẫn chưa cải chính. Vì
thế việc đăng bài này vẫn không phải là thừa.
Không
hồ nghi gì về mức độ thâm hiểm của anh hàng xóm khổng lồ này và đồng ý với nhận
định của tác giả, Diễn Đàn xin trân trọng giới thiệu bài viết với bạn đọc.
Có
vài câu hỏi đặt ra cần trả lời:
1.
Có nên cho phép dùng nhân dân tệ (NDT) trong các thanh toán giữa các đối tác
trong nội bộ nền kinh tế Việt Nam?
Câu
trả lời phải là không.
Không
một nước nào muốn có một nền kinh tế độc lập, lại muốn xóa bỏ khả năng điều
hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép sử dụng rộng rãi vàng hay
ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là đồng NDT hay USD. Sử dụng ngoại tệ
một cách rộng rãi chứng tỏ rằng người dân không còn tin nội tệ và muốn giữ nó,
đưa đến việc nội tệ mất giá.
Tuy
vậy phải nói có nhiều mức độ mà ngoại tệ được dùng trong nền kinh tế.
Mức
độ thứ nhất là cho phép dùng ngoại tệ trong trao đổi một cách có kiểm soát.
Cách này thì VN, TQ trước đây đã dùng và Cuba hiện nay vẫn đang làm. Cách này
chỉ có thể áp dụng với các nền kinh tế bị phong tỏa, thiếu ngoại tệ.
Mức
độ thứ hai là việc xóa bỏ toàn bộ nội tệ để dùng một ngoại tệ như đồng Euro
trong khối các nước EU, hay như việc một vài đảo quốc nhỏ bé ở vùng Caribean sống
nhờ vào du khách Mỹ nên đã quyết định dùng USD làm nội tệ. Các quốc gia này
hoàn toàn mất khả năng điều động chính sách tiền tệ. Không thể phá giá đồng bạc
để làm hàng hóa rẻ đi, tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, giúp tăng khả năng trả
nợ. Họ chỉ có thể đuổi việc, giảm lương nhanh chóng để nâng cao tính cạnh tranh.
Nhưng điều này về mặt chính trị là không thể, nên phải để thị trường tự điều chỉnh
bằng khủng hoảng kinh tế kéo dài. Đó là trường hợp của Hy Lạp hiện nay. Tất
nhiên TQ không dám đề nghị đến mức độ này với VN trừ khi VN chịu làm thành viên
trong một liên bang cầm đầu bởi TQ trong đó chỉ có một đồng bạc được sử dụng là
NDT.
Mức
độ thứ ba mà hình như TQ đề nghị VN cho phép dùng cả hai đồng tiền như đã đề cập
ở đoạn trên, điều này sẽ đưa đến mất khả năng kiểm soát tiền tệ của chínhh phủ
VN. Đồng “tốt” NDT vì sức mạnh kinh tế của TQ sẽ đuổi đồng “xấu” VN ra khỏi thị
trường. Cái gọi là tình trạng vàng hóa và đô la hóa ở VN đã đưa đến lượng
“phương tiện thanh toán” thoát khỏi hoặc xâm nhập vào thị trường nội địa tùy
theo tình hình đầu cơ, sẽ làm Ngân hàng Trung ương mất khả năng theo dõi và kiểm
soát lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Nên nhớ rằng tiền tệ là bất cứ vật thể gì
đáng tin cậy, có thể dùng rộng rãi làm phương tiện thanh toán.
Sự
mất tin tưởng vào nội tệ có thể tạo ra tình trạng capital flight (rút chạy của
ngoại tệ) ra nước ngoài, làm quốc gia mất khả năng trả nợ, mất khả năng nhập khẩu,
đẩy hối suất lên cao và gây lạm phát. Tình trạng ngoại tệ tháo chạy (bằng cách
chuyển nội tệ sang ngoại tệ), qua việc bán tháo cổ phiếu, địa ốc năm 1997 đã
đưa đến việc mất khả năng chi trả nợ nước ngoài, làm suy sụp chính quyền
Suharto; còn Mã Lai đã phải đối phó bằng các biện pháp hạn chế chuyển ngoại tệ
để ngăn chặn việc tháo chạy của ngoại tệ.
Ngược
lại với tình trạng trên là chính sách đẩy mạnh phát triển chủ yếu dựa vào tín dụng
và vay mượn nước ngoài, đưa đến tình trạng đầu cơ thu hút ngoại tệ, qua thị trường
cổ phiếu, FDI, địa ốc tạo ra lượng cung tiền tệ lớn hơn nhiều so với mức tăng sản
xuất; nền kinh tế trở nên quá nóng đưa lạm phát lên cao cùng với mức tăng phi
lý của giá trị tài sản, kinh tế tất nhiên sẽ mất ổn định và sự suy sụp của giá
tài sản sau đó là điều không tránh khỏi. Đây là tình trạnh xảy ra những năm sau
năm 2006 ở VIệt Nam.
Khả
năng kiểm soát tiền tệ chính là điều kiện để một nước có khả năng đối phó với
tình trạng tháo chạy của tư bản hay tình trạnh quá nóng của nền kinh tế. Ngay
những nước này gặp vấn đề này, lúc đó, cũng không ai cho phép chi trả thanh
toán trong nội địa bằng ngoại tệ.
2.
Các phương pháp thanh toán trong buôn bán quốc tế và ảnh hưởng của chúng ra
sao?
Trước
khi đi vào cụ thể hơn, ta cũng nên biết qua về cách thanh toán trong buôn bán
quốc tế.
Hợp
đồng hay biên lai buôn bán hàng hóa trên thị trường quốc tế có thể viết trên cơ
sở bất cứ đồng bạc nào dựa vào sự đồng ý giữa hai bên có trao đổi. VN có thể
mua hàng của TQ và trả bằng USD, NDT hay đồng VN. Đây là đồng bạc ghi trong
biên lai mua bán. Khi chi trả, cần thông qua ngân hàng để giải quyết bằng đồng
tiền ghi trong biên lai, nhưng người nhận hay người chi trong nước chỉ nhận và
chi bằng nội tệ. VN nếu phải trả bằng USD thì ra ngân hàng thương mại mua USD bằng
đồng VN để thanh toán. Còn nếu thanh toán bằng NDT, thì phải mua NDT bằng đồng
VN ở ngân hàng để thanh toán. Ngược lại, nếu bán hàng nhận NDT thì ra ngân hàng
thương mại đổi ra tiền Việt. Qua cách làm như vậy, Ngân hàng Trung ương có thể
kiểm soát được lưu lượng tiền tệ. Như vậy, một nước muốn kiểm soát được tiền tệ
và giá cả thì phải theo nguyên tắc không cho phép mở tài khoản bằng ngoại tệ.
Nhưng
vì NDT không phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên VN sẽ gặp khó khăn nếu chấp
nhận chi trả bằng NDT.
Không
có nước nào có lệnh ép buộc phải ghi biên lai bằng 1 đồng tiền nào đó, nhưng vì
đồng USD đang được sử dụng rộng rãi nên nó tự nhiên trở thành đồng tiền ghi
biên lai.
2.1
NDT có thể dùng làm dự trữ ngoại tệ không?
Nếu
ý đồ của TQ là kêu gọi VN dùng NDT làm dự trữ ngoại tệ thì đó là việc bản thân
Ngân hàng nhà nước VN sẽ phải quyết định, dựa trên lợi ích có thể có nếu dùng
chúng vào việc đó như dùng USD, EU hay đồng Yen.
Bất
lợi cho Việt Nam
Có
thể nhận định là đồng NDT hiện nay không được chuyển đổi tự do và khi được phép
chuyển đổi, giá NDT cũng chưa do thị trường quyết định. Ở TQ hiện nay vẫn phải
xin phép và chỉ với lý do được coi là chính đáng mới có thể đổi đồng NDT sang đồng
tiền khác và chuyển ra nước ngoài. Trong tình hình này, dù các nhà sản xuất VN
có đồng NDT họ cũng không thể tự do chuyển sang đồng ngoại tệ khác để đưa về nước
hoặc dùng chúng để mua hàng hóa nước khác. Tình hình như hiện nay thì Việt Nam
sẽ chịu nhiều thiệt thòi sau:
a)
NDT thu được chỉ có thể dùng để mua hàng Trung Quốc.
b)
Trong trường hợp được phép thì VN phải chịu hai thiệt thòi: i) trả chi phí chuyển
đổi, ii) chịu rủi ro trong thay đổi hối suất khi NDT mất giá.
Lợi
cho Trung Quốc
TQ
bán và mua hàng bằng NDT, nên hoàn toàn không phải chịu phí chuyển đổi và cũng
không chịu rủi ro thay đổi hối suất. TQ có thể dễ thu hút người mua có dự trữ
NDT.
2.2
Có nên để Ngân hàng TQ được quyền cấp tín dụng bằng NDT trên thị trường VN?
Câu
trả lời cũng là không.
Một
quốc gia có thể thu hút tư bản nước ngoài (tức là ngoại tệ) bằng nhiều biện
pháp để phát triển kinh tế:
a)
Thu hút vốn tự có qua đầu tư trực tiếp (FDI) hay phát hành cổ phiếu ra nước
ngoài để có ngoại tệ nhập máy móc và cho các chi phí cần ngoại tệ;
b)
Vay mượn qua vay ngân hàng nước ngoài hay bán trái phiếu cho nước ngoài.
Tất
cả ngoại tệ thu được đều phải chuyển qua ngân hàng thương mại, đổi thành nội tệ
nếu được chuyển về trong nước. Chỉ trong trường hợp hãn hữu (có tính phi nguyên
tắc và nếu được áp dụng rộng rãi sẽ có hại cho chính sách tiền tệ, và không nên
khuyến khích) là các khoản vốn này được gửi vào tài khoản bằng ngoại tệ.
Việc
xử lý NDT cũng phải thực hiện trên cơ sở được bàn ở trên. Không có lý do gì cho
phép một ngân hàng TQ được mở ở Việt Nam nhằm cấp tín dụng bằng NDT trên thị
trường Việt Nam vì như thế đồng nghĩa với việc cho phép TQ tham gia vào việc
phát hành tiền tệ trên thị trường Việt Nam.
Không
rõ điều Hiệp hội doanh nghiệp TQ và Ngân hàng Công thương TQ kiến nghị1
cụ thể thế nào, nhưng tin trên báo VN cho biết như sau:
Hiệp
hội Doanh nghiệp Trung Quốc cho rằng nếu thị trường thanh toán NDT từ biên giới
được mở rộng đưa vào nội địa Việt Nam và được các ngân hàng thực hiện theo con
đường chính ngạch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể quản lý nguồn vốn này hiệu
quả, tăng cường thu thuế và công tác phòng chống rửa tiền.
Doanh
nhân TQ đã lý luận rằng VN đã cho phép thanh toán bằng đồng NDT lên tới 15 tỷ
USD ở vùng biên giới, và cho rằng do việc mang tiền qua biên giới bị kiểm soát
chặt nên mới có yêu cầu cho tự do hơn này và họ than phiền như sau:
Tuy
nhiên, sau khi thanh toán, các thương nhân muốn mang VND và CNY qua cửa khẩu
biên giới phải tuân theo quy định chặt chẽ về mang ngoại tệ tiền mặt cũng như
mang VND tiền mặt khi xuất nhập cảnh. Hơn nữa, các giao dịch thanh toán tại
biên giới Việt Nam phải thực hiện thông qua một ngân hàng được phép của Việt
Nam ở khu vực biên giới.
Chính
thông tin trên cho thấy chính quyền VN đang tự cho phép mình mất chủ quyền về
tiền tệ ở vùng biên giới, biến các tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp TQ tiến
công xâm nhập vào thị trường VN bằng quyền sử dụng NDT. Việc tự đánh mất
chủ quyền thể hiện rõ qua chính sách của chính quyền VN hiện nay là cho phép mỗi
người dân ở biên giới nhập hàng TQ về 2 triệu VNĐ/ngày. Chính sách kiểu này là
cho phép hợp pháp hóa buôn lậu của nhóm lợi ích. Chính sách này cần chấm dứt.
Phải
chăng đây cũng là lý do tại sao VN không còn kiểm soát được nhập khẩu từ TQ và
chất lượng hàng nhập khẩu từ TQ? Cũng nên nói qua là tổng nhập siêu từ TQ ngày
càng tăng và năm 2013 lên đến gần 24 tỉ US so với xuất siêu sang Mỹ là 18 tỷ.
Và hàng nhập từ TQ chủ yếu là máy móc, nguyên liệu để gia công. Mở rộng thêm
theo đề nghị của phía TQ là mở rộng khả năng NDT đuổi đồng nội tệ ra khỏi thị
trường VN và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc điều hành nền kinh tế VN và
chính trị ở VN. Đây cũng chính là lúc chính quyền VN nên xem xét lại chính sách
tiền tệ và thương mại với TQ ở khu vực biên giới. Một chính sách phù hợp là thực
hiện mậu dịch qua ngân hàng bằng đồng tiền chuyển đổi được trên thị trường thế
giới, còn nếu không thì dựa trên việc thành lập qua ngân hàng một quĩ chuyển đổi
giữa đồng VN và nhân dân tệ, bên VN có thể mua hàng bằng đồng Việt và bên TQ có
thể mua hàng bằng nhân dân tệ, phần còn lại được giải quyết bằng đồng chuyển đổi.
Đây cũng là cách hai bên hợp tác nhằm có biện pháp phù hợp cân bằng thương mại
giữa hai nước.
Vũ
Quang Việt
No comments:
Post a Comment