06:50:am
15/01/15
Putin và Stalin
Nước
Nga, một giải đất rộng mênh mông bát ngát chiếm 1/6 diện tích thế giới, một đất
nước vĩ đại vô cùng lạnh lẽo, một dân tộc bất hạnh chịu nhiều tang thương đau
khổ bị dầy vò xâu xé vì chiến tranh cách mạng, chịu nhiều thảm kịch núi xương
sông máu qua những thập niên dài đằng đẵng.
Mùa
đông nước Nga lạnh nhất thế giới, thường là bốn, năm chục độ dưới số không. Họ
có một nền văn chương giầu vào bậc nhất trên thế giới với nhiều nhà văn hào,
thi hào vĩ đại như Léon Tolstoi, Dostoievsky, Pouchkine, Sholokhov… đã được cả
thế giới nhất là Tây phương vô cùng ngưỡng mộ.
Thời
Nga hoàng, đất nước, xã hội không văn minh bằng Anh, Pháp, cuộc cách mạng tháng
2-1917 nhà lãnh đạo Kerensky lật đổ Nga Hoàng, từ tháng 3 tới tháng 5 ông làm Bộ
trưởng tư pháp và chiến tranh, tháng 7 làm Thủ tướng một chính phủ tư sản.
Tháng mười 1917 Kerensky bị Lénine cướp chính quyền lật đổ. Người ta thường hiểu
lầm cuộc cách mạng vô sản hay cách mạng Bolshevik lật đổ Nga hoàng, thực ra
chính quyền tư sản lật đổ chế độ phong kiến (tháng 2) sau đó nhóm Marxist mới
cướp lại chính quyền từ tay tư sản (tháng 10).
Mới
đầu các lý thuyết gia Mác xít tưởng cách mạng vô sản sẽ nổ ra tại Đức, một nước
công nghiệp, nơi phát sinh lý thuyết Marx Engels. Đúng lý thuyết một nước muốn
tiến lên xã hội chủ nghĩa phải là một nước tư bản công nghiệp vì họ có sắn nhiều
xưởng máy có khả năng sản xuất nhiều của cải vật chất tiến lên làm ăn lớn xã hội
chủ nghĩa. Trên thực tế cách mạng lại diễn ra tại Nga một nước nông nghiệp lạc
hậu, sau đó nó cũng phát sinh tại Trung Hoa, Việt Nam … những nước lạc hậu nông
vi bản. Những nước nghèo đói, xã hội thối nát là những miếng mồi ngon của Cách
mạng, có người nói.
“Con
vi trùng Cộng Sản chỉ sinh sôi nẩy nở trong những đống rác xã hội hôi thối”
Lý
thuyết vô sản chỉ sống được trong những môi trường dơ bẩn thối tha, những nước
Nga, Tầu, Việt Nam , Cuba … nghèo nàn đói rách, xã hội đầy bất công là môi trường
thuận lợi nhất cho cách mạng. Những nước này tiến lên Xã hội chủ nghĩa không
qua giai đoạn tư bản.
Sau
cách mạng 1917 nước Nga lâm vào một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài từ 1917 cho
tới 1922 giữa khoảng 4 triệu lính Hồng quân và 2 triệu rưỡi Bạch Vệ. Khi cuộc
chiến kết thúc Hồng quân có một triệu hai và Bạch vệ một triệu rưỡi người tử trận.
Joseph
Stalin được cử làm Tổng bí thư Trung ương đảng từ 1922, ông củng cố địa vị mạnh
sau khi Lénine chết năm 1924, xóa bỏ những lời kết tội của Lénine. Di chúc
Lénine được soạn đầu năm 1923 trong đó có đề nghị truất Staline ra khỏi chức Tổng
bí thư Trung ương đảng. Tháng 3-1923 Lénine bị liệt, cuối cùng bản di chúc
không loại được Staline khi Lénine mất tháng 1 năm 2014, vợ Lénine muốn di chúc
phải được đọc trước Đại hội đảng lần thứ 13, tháng 5 năm 1924. Năm 1926 Staline
bị áp lực phải cho đọc bản di chúc trước kỳ họp của Trung ương đảng. Staline đã
củng cố địa vị của ông ta những năm cuối thập niên 20, kết án những ai trích dẫn
di chúc này coi như phản động.
Sau
khi Nikita Khrushchev hạ bệ Staline tại Đại hội đảng kỳ 20 năm 1956, chính phủ
cho chính thức in lại di chúc. Từ 1926 bản di chúc đã được đăng đầy đủ trên báo
New York Times, trong bộ Lénine tuyển tập, bản dịch tiếng Việt do Hà Nội ấn
hành thập niên 70 có ghi lời Lénine;
“Chúng
ta không dùng đồng chí Staline nữa, đồng chí Staline là một người thô bạo”
Sau
năm 1924 Staline cho xóa bỏ những chỉ trích kết án của Lénine, Staline làm Tổng
bí thư cho tới 1952 khi chức này bị bỏ vào năm 1952, ông ta đồng thời làm Thủ
tướng từ 1941. Dưới thời Staline, lý thuyết chủ trương chỉ thực hiện xã hội chủ
nghĩa trong nước thôi được chấp nhận từ 1924, trái ngược với Léon Trosky chủ
trương tiến lên vô sản hóa toàn thế giới. Staline thay đổi chính sách kinh tế mới
của Lénine bằng chính sách kinh tế chỉ huy tối đa, xúc tiến một giai đoạn công
nghiệp hóa và hợp tác xã để biến nước Nga thành một cường quốc kỹ nghệ. Staline
đã đưa nước Nga phong kiến lạc hậu lên hàng cường quốc kỹ nghệ nhưng phải trả
giá quá đắt, ông đã làm đổ máu khoảng 10 triệu người.
Thập
niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline
tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên làm ăn lớn
xã hội chủ nghĩa. Staline cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, chống đối,
lừng khừng, phản động …Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của
Staline.
Sau
này Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo Staline tắm trong máu, ông cho biết đã thấy
danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11
triệu người bị giết.
Churchill
viếng Kremlin năm 1942, Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu
trong giai thực hiện Hợp tác xã, ông nói không thể làm khác hơn được. Phim The
Soviet Story nói trong khi ấy tại Đức Hitler theo dõi và khâm phục Staline,
trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều người như thế.
Năm
1932-33 Staline đã gây nạn đói tại Ukraine khiến 7 triệu người chết. Từ
1934-1939 Staline mớ những cuộc thanh trừng vĩ đại, đẫm máu trong đảng, trong
chính phủ, quân đội, ngành tình báo….nhiều triệu người bị coi là kẻ thù của
nhân dân bị tù đầy bắn giết trong các trại tập trung từ 1936-1939. Ông ta mở
chiến dịch chống kẻ thù trong các khuôn mặt lớn của Đảng CS như các Bolsheviks
lão thành, Léon Trosky và phần lớn các Tướng lãnh Hồng quân. Họ bị xử tử với tội
danh âm mưu lật đổ chính quyền, Trosky trốn sang Mễ Tây Cơ bị Staline cho ngưòi
tới ám sát năm 1940.
Năm
1939 Staline đàm phán với Anh Pháp để lập liên minh chống Đức Quốc Xã nhưng thất
bại, ông ký hòa ước với Đức tháng 8-1939. tháng sau Staline cho chiếm đông Ba
Lan trong khi Đức chiếm phía tây Ba Lan.
Hitler
trở mặt mở chiến dịch Barbarossa tấn công Sô Viết ngày 22-6-1941 với đạo quân
khổng lồ 180 Sư đoàn bộ binh và cơ giới (70% lực lượng) nhưng Staline lại thờ ơ
không tin mấy. Quân Nga mặc dù đông nhưng trang bị lỗi thời đã bị Đức đè bẹp
ngay từ đầu. Khởi đầu chiến dịch cho tới những ngày gần chót khi quân Đức đã tiến
sát Mạc Tư Khoa trong gần nửa năm, họ đã bắt được khoảng 3 triệu tù binh Nga.
Đầu
tháng 12-1941, quân Đức chỉ còn cách Mạc Tư Khoa 18 dặm Anh (30km), cả thành phố
hốt hoảng tưởng như địch sắp vào tới nơi, Hitler đắc thắng tuyên bố “Cộng Sản
Nga đang dẫy chết”. Thế giới nín thở, người ta cho rằng nước Nga đã thua trận,
khoảng hơn 200 Sư đoàn chủ lực đã bị đánh tan rã. Nhờ tin tình báo của Tiến Sĩ
Sorge cho biết quân Nhật ở Mãn Châu sẽ không tấn Nga như đã dự trù. Staline cho
rút 40 sư đoàn tại đây về tăng cường cứu nguy Mạc Tư Khoa, chuyển bại thành thắng,
đẩy lui được quân Đức ra xa hằng 100km. Trận Moscow kéo dài từ tháng 10-1941
cho tới tháng 1-1942
Hitler
cho tiến xuống chiếm Stalingrad phía nam, vì tiến quá xa thiếu tiếp tế, bị Nga
bao vây từ tháng 8-1942 tới đầu tháng 2-1943 quân Đức đầu hàng, Staline thắng một
trận lớn nhưng thiệt hại quá nặng, khoảng nửa triệu lính tử trận, nhiều hơn
toàn bộ số binh sĩ tử trận của Mỹ trong suốt Thê chiến (400 ngàn). Những năm
1942, 1943 đất nước trở thành bãi chiến trường đẫm máu cho các trận đánh long
trời lở đất giữa hàng trăm sư đoàn Nga-Đức.
Những
tháng đầu 1944, quân Đức phải rút về phía tây vì thiệt hại nặng, thiếu tiếp liệu,
Staline đã đuổi được quân thù ra khỏi đất nước.
Không
ai ngoài Staline có thể lãnh đạo thắng lợi trận chiến mà họ gọi là Cuộc Chiến
Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, Great Patriotic War nhưng với cái giá quá cao. Theo tài
liệu do Liên Xô đưa ra là 20 triệu người trong đó một nửa là dân, một nửa là
lính (sách báo Liên xô tại Saigon sau 1975) nhưng theo Tây phương tổng cộng có
27 triệu người Nga bị giết trong cuộc Thế chiến (phim Anh-Mỹ: World War II
Behind Closed Doors). Ngoài ra (theo tài liệu Nga) có hơn 1,000 tỉnh, thị xã,
quận huyện Nga bị phá hủy. Sự lãnh đạo sắt máu tàn bạo của Staline không kể gì
tới sinh mạng người dân mà chỉ cần tiến tới mục tiêu chiến thắng.
Thế
chiến thứ hai gần kết thúc, Staline họp với Roosevelt, Churchill tại hội nghị
Yalta, Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ phụ Mỹ đánh quân Nhật tại Á châu vì địch
còn mạnh. Staline truy kích Đức Quốc Xã đầu năm 1944 và chiếm luôn các nước
Đông Âu như Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức… tại
những nước này quân Nga lấy hết vàng bạc, quí kim, ngoại tệ trong các ngân hàng
đem về.
Staline
chủ trương chỉ tiến lên xã hội trong một nước nhưng cuối Thế chiến nhân đánh đuổi
quân Đức rồi chiếm các nước Đông Âu dựng lên nhiều chính quyền Cộng Sản. Nhân dịp
này ông ta tiến lên vô sản hóa thế giới không bằng đấu tranh giai cấp mà bằng họng
súng đẻ ra chính quyền. Cuộc Thế chiến là cơ hội nghìn vàng cho CS bành trướng
rất nhanh mà chính họ cũng không ngờ.
Ngày
6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật, ngay
sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn Châu. Sự
thực Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, khoảng một triệu
quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết
giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc. Nga cũng tháo gỡ hết các
nhà máy tại đây đem về nước.
Giữa
năm 1946 cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông nổ
ra, Mỹ giúp Tưởng, Nga giúp Mao.. sau mấy năm chinh chiến, Mao thắng trận, Tưởng
đại bại. Ngày 1-10-1949, Mao tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ
đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng và khoảng 2 triệu Quốc
Dân Đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan.
Thế
là Staline lập được một đế quốc CS mênh mông từ Âu sang Á y như đế quốc Mông cổ
của Thành Cát Tư Hãn bẩy thế kỷ trước, nước Tầu rơi vào tay CS làm lệch cán cân
giữa Thế giới tự do và Xã hội chủ nghĩa Sô viết. Mặc dù đã bị Đức Quốc Xã đập
cho một trận nên thân, Nga không lo tái thiết mà vẫn không ngừng bành trướng.
Cuối
tháng 8-1949, Nga thí nghiệm thành công bom nguyên tử lần đầu nhờ đánh cắp tài
liệu Mỹ. Giữa năm 1950 Staline giúp Bắc Hàn tấn công chiếm Nam Hàn, Mỹ vào can
thiệp, sau mấy năm chiến tranh tàn khốc, hai bên ký đình chiến tháng 7-1953
Staline mất ngày 5-3-1953 sau gần 30 năm cầm quyền.
Nikita
Khrushchev
Ông
là người kế vị Staline, giữ chức Bí thư thứ nhất đảng CS Nga từ 1953 tới 1964,
Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hay Thủ tướng từ 1958 tới 1964. Khrushchev là người
hạ bệ Staline và yểm trợ chương trình không gian Nga và có một số cải cách
trong nội trị, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Năm 1964 ông bị Bộ chính
trị đảng lật đổ và đưa Leonid Brezhnev lên thay, xuất thân công nhân kim loại
thời trẻ tuổi, thời nội chiến ông là Ủy viên chính trị, ủng hộ cuộc thanh trừng
của Staline. Năm 1939 Khrushchev được Staline gửi tới Ukraine tiếp tục thanh trừng
tại đó, ông làm chính ủy thời Thế chiến, sau 1945 ông về Ukraine và được
Staline gọi về làm cố vấn.
Sau
1953 ông ta dành được quyền. Khi đã diệt hết tay chân của Staline, năm 1956
trong kỳ Đại hội đảng lần thứ 20 ông ta tố cáo cuộc thanh trừng, tố cáo tội ác
của Staline và bắt đầu một chính sách cai trị ít đàn áp hơn. Khruschev cải thiện
cuộc sống ngưòi dân nhưng ít kết quả nhất là nông nghiệp. Từ 23-10-1956 cho tới
10-11-1956 cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi tại Budapest đòi tự do bị
Khrushchev cho xe tăng đàn áp dã man có khoảng 2,500 người Hung bị thiệt mạng,
quân Nga có 700 người chết.
Ông
hy vọng nhiều ở hỏa tiễn và giảm bớt lực lượng thuộc chiến tranh qui ước, tuy cắt
giảm nhưng ông cũng gặp nhiều căng thẳng trong chiến tranh lạnh nhất là vụ khủng
hoảng hỏa tiễn tại Cuba trong 13 ngày căng thẳng tháng 10-1962 Mỹ-Nga về hỏa tiễn
Xô viết đặt tại Cuba đã được đưa lên truyền hình trên toàn thế giới và đã suýt
đưa tới chiến tranh nguyên tử toàn diện.
Để
trả đũa vụ Mỹ xâm lược Vịnh Con Heo năm 1961 và Mỹ đặt hỏa tiễn tại Thổ Nhĩ Kỳ,
Ý mà Moscow nằm trong tầm, Khrushchev theo yêu cầu của Cuba đặt hỏa tiễn mang đầu
đầu đạn hạt nhân tại đây để ngăn ngừa Mỹ xâm phạm như vụ Vịnh Con Heo sau khi
ông ta họp mật với Fidel Castro tháng 7.
Tháng
10-1963 Mỹ đang có tranh cử Tổng thống, máy bay do thám U-2 khám phá ra hỏa tiễn
tầm trung nguyên tử tại Cuba , TT Kennedy làm dữ cho ngăn chận tầu Nga mang hỏa
tiễn tới và buộc phải tháo gỡ hỏa tiễn đã gắn tại Cuba mang về Nga. Sau cuộc
thương thuyết căng thẳng đạt tới thỏa thuận giữa Kennedy và Khrushchev, Nga
tháo gỡ hỏa tiễn tại Cuba mang về có Liên Hiệp Quốc giám sát, ngược lại Mỹ sẽ
phải thỏa thuận không được xâm lược Cuba mà không tuyến chiến. Mỹ cũng bí mật
tháo gỡ hỏa tiễn tại Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đem về nhưng không tuyên bố cho dân biết.
Sau
đó Mỹ-Nga thỏa thuận thiết lập đường giây điện thoại nóng giữa Moscow và
Washington để ngăn ngừa Thề chiến mà cả hai bên cùng sợ, tình hình đã dịu sau
đó.
Năm
1949 Nga thỏa thuận sẽ giúp Trung Cộng chế tạo bom nguyên tử, sau 1956 khi
Khrushchev hạ bệ Staline khiến Nga-Hoa lạnh nhạt rồi căng thẳng, Mao tức giận
vì Khrushchev không hỏi ý kiến Mao trước, ông này âm mưu phá Khrushchev đang muốn
hòa hoãn với Mỹ. Nga cho rút các chuyên viên nguyên tử về nước 1959. Năm 1960
hai bên công khai chỉ trích, xỉ vả nhau ngày càng dữ dội, Trung Cộng chỉ trích
Nga là xét lại sự va chạm hai bên gia tăng.Ngày 16-10-1964 Trung Cộng thành
công cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ, cùng năm đó
Khrushchev bị Leonid Brezhnev và Trung ương đảng lật đổ tháng 10 khi ông vắng mặt,
người ta cũng cho là Mao lật đổ Khrushchev và cho nổ bom nguyên tử.
Leonid
Brezhnev
Ông
giữ chức Tổng bí thư Trung ương đảng Sô Viết từ tháng 10-1964 cho tới khi chết
tháng 11-1982, tổng cộng 18 năm, làm Tổng bí thư lâu nhất sau Staline, ông giữ
chức Chủ tịch Liên Bang Sô viết từ tháng 6-1977 tới tháng 11-1982. Dưới thời
Brezhnev ảnh hưởng Nga trên thế giới sút giảm mạnh phần vì phát triển quân sự
đánh dấu thời kỳ sự trì trệ xã hội, kinh tế của Liên bang Xô viết.
Tốt
nghiệp kỹ sư ngành luyện kim tại Ukraine , ông tham gia Thanh niên xung phong
năm 1923, sau đó vào quân đội tham gia Thế chiến Thứ hai. Năm 1946 giải ngũ khi
mang cấp bậc Trung tướng, năm 1952 ông trở thành Ủy viên Trung ương đảng, năm
1964 kế vị Khrushchev trong chức Bí thư thứ nhất trong khi Kosygin kế vị chức
Thủ tướng.
Ông
thường hỏi ý kiến các cộng sự trước khi hành động nhưng lế lối cầm quyền thiếu
cải cách kinh tế khiến đưa tới suy thoái giữa thập niên 1970, thời kỳ bị đình
trễ. Chi phí quốc phòng lên cao vì chạy đua vũ trang khoảng 12.5% tổng sản lượng,
các nhà lãnh đạo Nga giai đoạn này nói chung già nua thiếu khả năng khiến Tổng
sản lượng kinh tế sút giảm so với Tây phương. Theo lượng giá CIA, từ 1960-1965
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Nga là 4.8, từ 1970-1975 tụt hậu còn 3.00, từ 1980-85
tụt xuống còn 1.8. Kinh tế gia Samuelson nói trong cuốn Economics trang 830 (in
1970).
“Thập
niên 1970 cũng như thập niên 1960 Tổng sản lượng kinh tế của Nga vào khoảng một
nửa Tổng sản lượng Mỹ”
(In the 1970s, as in the 1960s, U.S.S.R real GNP is about one-half United States real GNP)Brezhnev thúc đẩy hòa hoãn với Tây phương theo lời kể của Henry Kissinger trong White House Years (chương 8, The Agony of Vietnam tr. 276-311) , năm 1969 Nga muốn đàm phán với Mỹ về tài giảm binh bị. Cuối tháng 5-1972 TT Nixon sang Moscow ký với Brezhnev hiệp ước tài giảm binh bị vũ khí hạt nhân.
(In the 1970s, as in the 1960s, U.S.S.R real GNP is about one-half United States real GNP)Brezhnev thúc đẩy hòa hoãn với Tây phương theo lời kể của Henry Kissinger trong White House Years (chương 8, The Agony of Vietnam tr. 276-311) , năm 1969 Nga muốn đàm phán với Mỹ về tài giảm binh bị. Cuối tháng 5-1972 TT Nixon sang Moscow ký với Brezhnev hiệp ước tài giảm binh bị vũ khí hạt nhân.
Tuy
thế năm 1968 ông ra Thuyết Brezhnev cương quyết trấn áp một nước trong khối xã
hội chủ nghĩa một khi có ý muốn chuyển qua tư bản, nó không chỉ liên quan tới
nước đó nhưng liên hệ tới cả khối CS. Cuối năm 1979 Nga đưa quân qua
Afghanistan để giúp chính phủ thân Nga chống lại cuộc nổi dậy, cuộc chiến sa lầy
9 năm cho tới đầu năm 1989 đã khiến 14,453 lính Nga bị giết. Trong No More
Vienams trang 214 (in 1985) Cựu Tổng thống Nixon khâm phục Nga nói trừ
Afghanistan họ đưa quân đàn áp phong trào chống chính phủ bù nhìn Nga, Moscow
đã thống trị được 9 nước kể từ 1974 mà không phải gửi quân vào. Thật vậy Sô viết
chỉ đứng ngoài dựt giây đã chiếm được nhiều nước.
Thuyết
Brezhnev được tuyên bố để biện minh cho việc Nga đưa quân sang Tiệp Khắc tháng
8-1968 đàn áp cuộc nổi dậy tại Prague cũng như sự đàn áp tại Hung gia Lợi từ
năm 1956.
Khrushchev
bị lật đổ phần lớn vì ông không quan tâm tới các Ủy viên cao cấp trong đảng và
chính phủ, thời Brezhnev nước Nga do một tập thể cai trị từ thập niên 60 cho tới
70.
Quan
hệ với Trung Cộng ngày càng xuống, hai bên đã chạm súng nhau tại biên giới
tháng 3-1969, Nga có 59 người Thiệt mạng, Trung Cộng từ 200 tới 800 người, cả
hai bên đều dấu kín chuyện này.
Khrushchev
mới đầu trợ giúp Bắc Việt trong tình đồng chí nhưng khi chiến cuộc leo thang
ông kêu gọi các lãnh đạo BV từ bỏ con đường giải phóng miền Nam . Ông từ chối
giúp BV và bảo họ thương thuyết với Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau khi
Khrushchev bị lật đổ, Brezhnev tiếp tục giúp CSVN dấn thân vào cuộc chiến đẫm
máu, nhất là thập niên 70, Nga viện trợ quân sự cho BV rất nhiều để chiếm cho
được miền nam VN và toàn cõi Đông dương.
Yuri
Andropov
Hai
ngày sau khi Brezhnev chết, Andropov được bầu làm Tổng bí thư đảng CS Sô viết từ
tháng 11-1982 cho tới khi chết 14 tháng sau đó. Từ 1967 Andropov làm Giám đốc
KGB, đây là lần đầu tiên một Giám đốc KGB được bầu làm Tổng bí thư. Trong thời
gian tại chức, ông đã cách chức 18 bộ trưởng, lần đầu tiên những sự kiện trì trệ
kinh tế hoặc khoa học trở ngại tiến bộ được cho phổ biến và chỉ trích.
Mặc
dù nhận thấy chiến tranh Afghanistan có thể là sai lầm nhưng ông không thành tâm
nghĩ tới thương thuyết để rút quân. Dưới thời Andropov quan hệ Nga-Mỹ xấu đi, họ
không muốn hoà hoãn, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan coi Xô Viết là một Đế quốc xấu,
nguy hiểm.
Một
việc đáng lưu ý trong thời gian làm Tổng bí thư, ông đã trả lời thư một cô gái
Mỹ 10 tuổi ở Maine , mời cô sang chơi với trẻ con Nga tại Moscow . Trong khi đó
đàm phán tài giảm binh bị hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu bị Nga hủy bỏ.
Chiến
tranh lạnh lại căng thẳng khi chiến đấu cơ Nga bắn rơi một máy bay hàng không
Đaị Hàn từ Anchorage , Alaska Mỹ tới Hán Thành ngày 1-9-1983 bay lạc vào không
phận Nga khiến 269 hành khách tử nạn. Chính Nga đã tìm được hộp đen nhưng giả vờ
nói không biết cho tới 1992 Yeltsin công bố bí mật này.
Konstantin
Chernenko
Andropov
chết tháng 2-1984 sau 15 tháng cầm quyền, bốn ngày sau Chernenko được bầu làm Tổng
bí thư lên thay trái với ý của Andropov muốn Gorbachev thay ông. Chernenko là Tổng
bí thư thứ năm của Sô viết, Gorbachev là nhân vật thứ hai sau Chernenko, thường
chủ toạ các phiên họp Bộ chính trị khi Chernenko bị bệnh, về sau sức khỏe suy yếu,
Gorbachev luôn thay thế ông.
Chernenko
được coi là người trở lại chính sách thời Brezhnev, ông thực hiện một thay đổi
nhân vật dưới quyền là cất chức Tổng tham mưu trưởng Thống chế Ogarkov, ông này
cổ võ tiết giảm tiêu xài để tăng chi phí nghiên cứu và phát triển quân sự và
thay bằng Thống chế Akhromeyev. Về đối ngoại ông ký hiệp thương với Trung Cộng,
mặc dù kêu gọi hòa hoãn nhưng ông ta không giảm chiến tranh lạnh với Mỹ .
Chernenko
chết bệnh 10-3-1985 sau 13 tháng cầm quyền.
Mikhail
Gorbachev
Lên
thay Chernenko năm 1985, Gorbachev là người lãnh đạo Liên Bang Sô Viết cuối
cùng, ông giữ chức Tổng bí thư đảng CS Nga từ 1985-1991, ngưởi đứng đầu nhà nước
từ 1988 cho tới khi giải thể năm 1991. Gorbachev sinh năm 1931 là Tổng bí thư
duy nhất sinh sau Cách mạng tháng mười.
Tốt
nghiệp đaị học luật, chính sách của ông gồm Mở rộng và Tái cấu trúc (Đổi mới)
và họp Thượng đỉnh với TT Ronald Reagan của Mỹ với khuynh hướng tài giảm binh bị
chấm dứt chiến tranh lạnh. Ông chủ trương bỏ vai trò đảng cai trị đất nước đưa
tới giải thể Liên bang Sô viết. Gorbachev được giải Nobel hòa bình năm 1990 và
nhiều giải thưởng hoà bình, tiến sĩ danh dự.
Ông
cải tổ đảng trì trệ và kinh tế bằng cởi mở, tái cấu trúc, đổi mới, dân chủ hóa
và đẩy mạnh tiến bộ kinh tế tại Đại hội đảng thứ 27 năm 1986, mục đích làm sống
lại kinh tế Nga sau những năm trì trệ thời Brezhnev. Gorbachev nói kinh tế trì
trệ cần tái tổ chức, cải cách chính gồm:
Cải
cách trong nước
Mục
đích làm sống lại nền kinh tế, ông chủ trương cải tiến kỹ thuật cấp tốc, tăng sản
xuất kỹ nghệ, canh nông, cải tiến chính trị Sô viết cho hữu hiệu hơn. Theo ông
muốn cải tổ kinh tế phải cải tổ chính trị xã hội, tháng 5-1985 ông cổ võ canh
tân, thay ngoại trưởng Andrei Gromyko người đã giữ chức vụ này 28 năm qua.
Tái
cấu trúc (perestroika)
Người
ta cũng thường gọi là đổi mới, nó là cơ bản để canh tân giải quyết kinh tế trì
trệ, năm 1986 được phác họa tại Đại hội đảng kỳ 27, phát huy dân chủ, chính quyền
tự chủ, chỉ trích, phê bình mọi cơ cấu xã hội.
Tháng
1-1987 Gorbachev đề nghị cho nhiều ứng cử viên tham gia bầu cử, những viên chức
chính phủ không cần có đảng tịch, không cần phải là đảng viên (CS)
Cởi
mở
Gorbachev
chủ trương cho người dân quyền tự do ngôn luận, bãi bỏ kiểm duyệt, thả tù chính
trị, tù bất đồng chính kiến, ông chấp nhận cho người dân được quyền chỉ trích
ông và chính phủ . Năm 1988 ông thực hiện một cải cách lớn nhất từ thời Lenine,
đó là chính sách kinh tế mới ra luật cho tư nhân được quyền sản xuất, buôn bán,
hoạt động ngoại thương. Mới đầu luật cho đánh thuế cao và hạn chế thuê nhân
viên về sau có xét lại để tránh gây trở ngại cho lãnh vực kinh tế tư. Từ đó cửa
hàng, cửa tiệm tư, hãng xưởng bắt đầu hoạt động, cho tổ chức nghiệp đoàn. Hoạt
động dịch vụ tự trị được khuyến khích để mong đầu tư nước ngoài vào làm ăn.
Tháng 6-1988 Gorbachev cho cải cách cấp tiến cắt giảm quyền kiểm soát của đảng
CS trong chính phủ, tháng 3-1989 cho bầu cử Quốc hội tự do trên toàn liên bang,
đây là cuộc bầu cự tự do lần đầu tiên kể từ 1917 tại Liên bang Xô viết.
Ngày
25-3-1990 Gorbachev được các Đại biểu bầu làm Tổng thống liên bang Sô viết với
59% phiếu bầu, Quốc hội họp lần đầu ngày 25-5 được đưa lên truyền hình bị chỉ
trích, người dân muốn cải tổ nhanh hơn nữa. Trong cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên
của đảng CS thất cử, Yeltsin được bầu ở Moscow và trở thành chính khách nổi
luôn chỉ trích Gorbachev
Đối
ngoại.
Gorbachev
cải thiện bang giao, thương mại với Tây phương , giảm cường độ chiến tranh lạnh.
Năm 1986 ông tiến xa trong quan hệ quốc tế, đề nghị hủy bỏ hỏa tiễn tầm trung tại
Âu châu và chiến lược của ông để hủy bỏ vũ khí nguyên tử vào năm 2000. Ngày
11-10-1988 Gorbachev và TT Mỹ Reagan họp tại Iceland bàn về tài giảm vũ khí
nguyên tử tầm trung. Họ thỏa thuận rời bỏ 100 hỏa tiễn tầm trung khỏi Âu châu,
sẽ loại bỏ tất cả vũ khí nguyên tử trong vòng 10 năm vào 1996 thay vì 2000 như
Gorbachev lần đầu đề nghị, thực hiện ký kết Thỏa ước hỏa tiễn tầm trung năm
1987.
Tháng
2-1988 ông cho rút khỏi Afghanistan , tổng cộng có 28,000 người Nga bị giết từ
1979-1989. Một sự kiện vô cùng quan trọng là Gorbachev.
tuyên
bố bãi bỏ học thuyết Brezhnev (nêu trên) cho phép các nước Đông Âu tự do lựa chọn
số phận của họ. Ngày 4-6-1989 Ba Lan cho bầu cử tự do, chính phủ CS bị hạ bệ,
Nga bỏ thuyết Brezhnev khiến dân Đông Âu nổi dậy suốt năm 1989 khiến cho chủ
nghĩa CS bị hủy bỏ. Cuối năm 1989 cuộc nổi dậy tại thủ đô các nước Đông Âu từ
nước này sang nước khác vứt bỏ chế độ CS xây dựng tại đây từ sau Thê chiến thứ
hai. Cuộc cách mạng dân chủ tự do bắt đầu từ Ba Lan và sau đó Hung Gia Lợi,
Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, chỉ có Lỗ Ma Ni (Roumanie) là nước duy nhất
dùng bạo lực lật đổ chính quyền Cộng sản, biến cố Thiên an Môn năm 1989 ở Bắc
kinh thất bại. Thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, Gorbachev được cấp giải Nobel
hòa bình 15-10-1989 và nhiều giải thưởng của các nước, nhiều tổ chức trên thế
giới. Ngày 9-11 dân Đông Bá Linh tràn qua Tây Bá Linh
Giải
thể Liên bang Xô viết
Mặc
dù Gorbachev cải tổ tự do dân chủ cho Sô Viết và Đông Âu nhưng kinh tế đi gần tới
khủng hoảng , cuối thập nên 80 thực phẩm khan hiếm phải dùng tem phiếu như như
thời chiến. So với 1985 khiếm ngạch từ 0 lên 109 tỷ rúp, dự trữ vàng giảm từ
2,000 xuống còn 200 tấn, nợ bên ngoài từ zero tới 120 tỷ đô la.
Vả
lại việc dân chủ hóa Sô viết và Đông Âu phá hủy quyền lực của Đảng CS Nga cũng
như của Gorbachev, các nước thuộc địa đòi trả độc lập nhất là ba nước
Lithuania, Latvia, và Estoniađã bị Staline sáp nhập vào Nga năm 1940. Năm 1989
người Tây phương gọi là cuộc Cách mạng 1989 (Revolutions of 1989) các nước đông
Âu từ bỏ chế độ CS và trở lại chế độ dân chủ tự do của họ trước 1945. Ngoài ra
các nước trong Liên bang, thuộc địa cũ từ thời Nga Hoàng tuyên bố độc lập, Liên
Bang Sô viết tan như xác pháo cuối năm 1991. Mười lăm (15) nước tuyên bố độc lập
tách khỏi Liên bang Xô viết là Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Russia, Tajikistan, Turkmenistan,
Ukraine, và Uzbekistan. Sự ly khai này đã khiến Nga mất một nửa dân số, trước
là 290 triệu nay chỉ còn 145 triệu.
Cách
đây 72 năm Lenine đem lý thuyết Marx Engels về thực hiện cuộc Cách mạng vô sản
long trời lở đất năm 1917 và bây giờ Gorbachev thực hiện cuộc Cách mạng 1989,
giải tỏa xiềng xích chế độ CS áp bức, đem lại dân chủ tự do cho Nga, cho các nước
Đông Âu và các nước thuộc địa cũ của Nga từ thuở xa xưa. Gorbachev là người có
công lớn với nhân loại, ông đã cứu nước Nga, các nước Đông Âu, các thuộc địa cũ
của Liên bang, đem lại tự do bác ái cho nhân dân. Gorbachev người có ảnh hưởng
nhất thế giới thập niên 80, đã thay đổi cả một kỷ nguyên, một vĩ nhân của thế kỷ.
Chính ông ta đã đào huyệt chôn vùi chế độ CS tại Nga, Đông Âu và cả trên thế giới
mặc dù nay các nước CS da vàng còn thoi thóp thở nhưng chúng cũng đang từ từ giẫy
chết.
Tháng
8-1991, Ủy ban nhà nước tình trạng khân trương đưa quân nhẩy về Moscow làm đảo
chính theo kiểu Nguyễn Chính Thi năm 1960 tại Sài Gòn để lật đổ Gorbachev, ông
này bị giam ba ngày tại Crimea . Yeltsin, Tối cao liên bang (Chủ tịch quốc hội)
đã đứng trên một chiếc xe tăng hô hào nhân dân chống đảo chính, ông đã dẹp được
cuộc phản loạn, nhân dân biểu tình chống quân đảo chính, Gorbachev được cứu tại
Crimea.
Cuộc
đảo chính của nhóm CS bảo thủ thất bại, người dân không muốn trở lại chế độ hà
khắc, tàn bạo, đây là cái quẫy mình cuối cùng của bọn tàn dư CS Nga trước khi
chết.
Boris
Yeltsin
Sự
nghiệp chính trị Gorbachev suy thoái, Yeltsin dần dần nắm được quyền hành từ bộ
này sang bộ khác kể cả điện Cẩm Linh. Ngày 6-11-1991 ông ra nghị quyết bãi bỏ tất
cả mọi hoạt động của Đảng CS trên đất Nga. Mới đầu ông là người ủng hộ
Gorbachev, Yeltsin nổi lên khi thực hiện Tái cấu trúc, đổi mới, ông thành đối
thủ chính trị mạnh nhất của Gorbachev. Ngày 29-5-1990 Yeltsin được bầu Chủ tịch
Tối cao Sô viết (Chủ tịch Quốc hội). Ngày 12-6-1991Yeltin được bầu theo phổ
thông đầu phiếu làm Tổng thống Cộng hòa Xã hội liên bang Sô Viết Nga (Russian
Soviet Russian Soviet Federative Socialist Republic), lúc đó là một nước trong
liên bang 15 nước. Khi Gorbachev từ chức và Liên bang Số viết giải tán ngày
25-12-1991, Yeltsin giữ chức Tổng thống liên bang Nga, năm 1996 ông tái đắc cử.
Ông
chủ trương cải tổ kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa tới một nền kinh tế thị trường
tự do, dưới thời Yeltsin, nhiều suy thoái như lạm phát, tham nhũng, kinh tế khủng
hoảng và nhiều vấn đề chính trị xã hội ảnh hưởng nặng nước Nga. Năm 1992 vật
giá tăng vọt, thập niên 90 tổng sản lượng suy giảm còn một nửa, thất nghiệp dữ
dội, lạm phát phi mã khiến bao nhiếu người mất hết tiền tiết kiệm, mười triệu
người Nga lâm vào cảnh bần hàn.
Ông
tiếp tục giữ chức Tông thống cho tới 31-12-1999, tỷ lệ ủng hộ xuống không còn
gì trong những ngày cuối cùng, một loạt những khủng hoảng kinh tế chính trị khiến
Yeltsin không lấy lại được uy tín lúc ban đầu. Ông từ chức ngày 31-12-1999, Thủ
tướng Vladimir Putin trở thành tổng thống lâm thời cho tới khi cuộc bầu cử mới
được tổ chức ngày 26 tháng 3, 2000.
Vladimir Putin.
Ông
giữ chức Thủ tướng Nga từ tháng 8-1999 tới tháng 12-1999, sau đó làm Tổng thống
lâm thời do Yeltsin trao lại từ cuối 1999 tới tháng 3-2000. Putin đắc cử Tổng
thống 26-3-2000 với 53% số phiếu nhiệm kỳ đầu 2000-2004 và tái đắc cử nhiệm kỳ
hai 2004-2008 đồng thời với hai nhiệm kỳ của TT Mỹ Bush con. Ông lại làm Thủ tứớng
từ 2008-2012 trong khi Dmitry Medvedev, Thủ tướng của ông lên làm Tổng thống.
Putin cũng là chủ tịch đảng Thống nhất Nga, đã phục vụ cho KGB 16 năm, lên tới
trung tá trước khi hoạt động chính trị. Ông tham gia chính phủ Yeltsin và lên rất
nhanh. Vì hiến pháp chỉ cho làm Tổng thống hai nhiệm kỳ ông không thể ra ứng cử
tiếp năm 2008.
Dmitry
Medvedev, Thủ tướng của Putin đắc cử Tổng thống 2008 và cử Putin làm Thủ tướng.
tháng 9-2011 sau khi luật thay đổi tăng nhiệm kỳ Tổng thống từ 4 lên 6 năm,
Putin cho biết ông sẽ ứng cử lần thứ ba (2012) khiến nhân dân biểu tình chống đối
tại nhiều thành phố Nga. Ông lại thắng cử Tổng thống năm 2012 (63.6% số phiếu)
và sẽ cầm quyến 6 năm, cử Dmitry Medvedev làm Thủ tướng. Đây chỉ là một trò hề
bầu cử, ông Tổng thống xuống làm Thủ tướng rồi ông Thủ tướng lên làm Tổng thống,
nước Nga trở thành một hí trường cho hai anh hề diễn tuồng bầu bán ma mãnh.
Putin
bị trong nước chống đối, bị thế giới coi là dân chủ giả hiệu, người ta cho là nền
dân chủ lai căng này sẽ từ từ đưa tới độc tài, năm 2014 Nga bị truất khỏi G-8
vì sáp nhập bán đảo Crimea vào nước họ. Ngày 21-2-2014 Quốc hội Ukraine lật đổ
Tổng thống thân Nga Yanukovych và cử TT lâm thời Turchynov lên thay. Mỹ và Tây
phương công nhận chính phủ mới, Nga phủ nhận. Hai ngày sau Putin đưa vũ khí lén
giúp bọn gốc Nga chiếm bán đảo Crimea, cuối tháng 3 họ tổ chức bầu cử ma mãnh
dưới sự yểm trợ xe tăng để sáp nhập bán đảo này vào Nga.
Kinh
tế tốt đẹp trong thời kỳ Putin làm Thủ tướng và Tồng thống lần đầu 1999-2008 lợi
tức thực sự tăng 2.5 (hai lần rưỡi), lương bổng thực sự tăng gấp ba, thất nghiệp,
nghèo nàn giảm một nửa, nhân dân mãn nguyện. Nhiệm kỳ trước của Putin được đánh
dấu kinh tế tăng trưởng, kinh tế Nga tiến một mạch 8 năm, Tổng sản lượng tăng
600% , chính phủ giảm thuế. Chính sách năng lượng khiến Nga trở thành siêu cường
năng lượng. Putin trợ giúp kỹ nghệ high tech như Quốc phòng, nguyên tử, đầu tư
ngoại quốc gia tăng khiến kỹ nghệ xe hơi tăng trưởng. Nay đầu tư vừa giảm 2.5%
vì Ukraine khủng hoảng, nước Nga khác thường trong số những nền kinh tế lớn ở
chỗ họ dựa vào lợi tức năng lượng dầu, khí để tăng trưởng.
Đất
nước được thiên nhiên ưu đãi có đầy tài nguyên thiên nhiên gồm dầu, khí đốt
thiên nhiên, kim loại quí…chiếm phần lớn hàng xuất khẩu Nga. Những thập niên
2000 năng lượng nhiên liệu đã thay đổi bộ mặt nước Nga trở thành siêu cường
năng lượng như năm 2012 dầu và khí đốt chiếm 16% Tổng sản lượng, chiếm 52% lợi
tức ngân sách liên bang và chiếm hơn 70% hàng xuất cảng. Kỹ nghệ quân sự Nga rất
cao, năm 2013 vũ khí xuất cảng là 15 tỷ (Mỹ kim) đứng thứ hai sau Mỹ gồm máy
bay chiến đấu, phòng không, tầu chiến, tiềm thủy đĩnh …
Từ
2000-2012 xuất cảng dầu khí khiến đời sống người dân tăng, lợi tức tăng 160%
nhưng lợi tức phân phối không đều trong khi 110 nhà tỷ phú chiếm giữ 35% tiến của
trong nước. Nga cũng bị nạn tiền thất thoát ra ngoại quốc, từ 2000-2012 mất 880
tỷ Mỹ kim.
Nay
kinh tế Nga bị suy thoái từ khi sáp nhập bán đảo Crimea, bị Mỹ và Tây phương trừng
phạt kinh tế, thị trường chứng khoán lao xuống vực thẳm, đồng Rúp mất giá
gần một nửa. Nay giá dầu thô tụt xuống dưới 50 đô so với trên 100 đô nửa năm
trước khiến kinh tế Nga càng khốn đốn vì họ sống bằng bán dầu, năng lượng.
Nga
hoàn toàn trái ngược với nước Nhật, diện tích Nga nay 17 triệu Km vuông gấp 44
lần nước Nhật (337 ngàn Km2), Nga có rừng vàng biển bạc trong khi Nhật bị thiên
nhiên bạc đãi, không có tài nguyên nhưng nhờ trí thông minh, tài năng họ đã chế
tạo được các hàng xuất khẩu tuyệt hảo bán khắp năm châu. Kỹ nghệ đã đưa Nhật
lên hàng kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới thập niên 80, 90 và 2000, chỉ mới xuống
hàng thứ ba những năm gần đây. Putin có công đào xới cái “của trời cho” đem xuất
cảng đưa đất nước lên hàng cường quốc kinh tế thứ 8 mà trước đó đứng hàng thứ mấy
chục.
Cuối
thập niên 90 sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, 15 nước trong Liên bang đòi trả
độc lập, Đông Âu từ bỏ chế độ CS, nưóc Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh
tế, Tổng sản lượng suy giảm còn 50%, lạm phát gia tăng.
Thời mà đế quốc Sô viết
đã từng chọc trời khuấy nước nay còn đâu?
Dậu
đổ thì bìm bìm leo, nhiều nước nhất là Mỹ, Tây phương khinh rẻ nước Nga hết thời,
có người nói đừng coi thường Nga họ vẫn còn cả một kho vũ khí cũ. Đó cũng là lý
do thúc đẩy Putin vùng vẫy để lấy lại chút hào quang quá khứ mà nhân dân cũng đồng
ý để ông quậy cho đỡ tủi. Ông dật dây dựng lên một chính quyền thân Nga tại
Ukraine trước đây để từ từ kéo họ về Nga nhưng thất bại, người Ukraine ác cảm với
Nga vì họ đã từng bị Staline giết bẩy triệu người năm 1933. Họ lật đổ Tổng thống
thân Nga khiến Putin nổi giận sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga trắng trợn
Khi
bị Tây phương trừng phạt kinh tế, Putin quá giận mất khôn tuyên bố Nga là nước
duy nhất có thể biến Hoa Kỳ thành tro bụi. Nay bất lực trước đòn kinh tế Putin
chỉ còn nước hù dọa cho đỡ tủi. Đe dọa chỉ là vũ khí của kẻ yếu, nay kho vũ khí
cũ đã quá lỗi thời chẳng dọa được ai, cũng chẳng đánh được ai. Ngay cả những
tay trùm CS như Staline, Khrushchev, Brezhnev .. đã từng hét ra lửa, mửa ra
khói cũng không dám nói vậy. Putin lợi dụng chính sách đối ngoại mềm yếu của
Obama để lộng hành, nhưng hai năm nữa, Cộng hòa sẽ lên nắm quyền, khi ấy ông sẽ
không dại gì mà vuốt râu hùm.
Có
vài người nịnh Putin, thổi ông lên hàng người có nhiều quyền lực nhất thế giới
nhưng quyền lực ở chỗ nào? Nay dân số Nga chỉ còn một nửa (145 triệu, List of
countries by population Wiki) sau khi Liên bang Sô viết tan rã đứng hàng thứ 9
trên thế giới. Tổng sản lượng Nga thập niên 60, 70 bằng nửa của Mỹ như
Samuelson đã nói trên, nay TSL Nga (2,000 tỷ) đứng hàng thứ 9, chỉ bằng gần 1/8
của TSL Mỹ (16,7 68,000). Ngân sách quốc phòng Nga (88 tỷ) hiện đứng thứ ba
trên thế giới nhưng chỉ bằng 1/7 của Mỹ (640 tỷ), diện tích Nga từ 24 triệu Km2
còn 17 triệu Km2.
Nhiều
người cho rằng Putin muốn trở lại thời chọc trời khuấy nước của Liên bang Xô viết
xa xưa nhưng than ôi thời oanh liệt nay còn đâu? Muốn vậy trước hết phải chiếm
lại 15 nước thuộc địa cũ để đưa dân số từ 145 triệu trở lại 290 triệu và Tổng sản
lượng lên hàng thứ hai, thứ ba, sau đó chiếm lại Đông Âu để tái lập giang sơn
nhưng chỉ có những thằng điên mới mang ảo tưởng như vậy, làm sao có thể quay
ngược bánh xe lịch sử?
Liên
bang Xô viết, cái nôi của CS đầu hôm sớm mai tan như xác pháo, nhà Phật gọi là
vô thường, chẳng có gì là thường còn, có sinh thì có diệt.
Có
lẽ ông Putin nên nghĩ tới kế hoạch phục hưng nền kinh tế đang suy thoái thì hay
hơn là đào xới “của trời cho” đem bán, miệng ăn núi lở, ăn mãi nó cũng phải hết.
Các nước Nhật , Nam Hàn không có nguyên liệu, họ có tài năng làm ra của cải vật
chất không phải phụ thuộc vào thị trường năng lượng như Nga.
Tương
lai kinh tế nước Nga thật là ảm đạm, một ngày nào Putin cũng sẽ quan tâm tới
chính sách xét lại con đường sai lầm mà ông hằng theo đuổi một cách vô ích.
©
Trọng Đạt
©
Đàn Chim Việt
1 Phản hồi cho “Từ Staline tới Putin”
1. Lại Mạnh Cường says:
Thành
thật cám ơn Trọng Đạt đã làm một review thật ngắn gọn và chính xác các sự kiện
lịch sử quan trọng ở hai thập niên cuối thể kỷ 20.
Xin
nói cho rõ hơn là thời Gorbachev đưa ra Perestroika (tái cấu trúc; nhưng tôi
thích gọi là cải tổ hay đổi mới cho rõ nghĩa hơn), đi song hành là Glasnost
(công khai hóa; minh bạch hoá; thay cho từ ngữ cởi mở như tác giả dịch thoát!)
Glasnost
bổ túc cho Perestroika và là thành phần quan trọng không thể thiếu được của
Perestroika.
Muốn cải tổ hay đổi mới thật sự thì cần công khai hoá mọi chuyện, bằng cải cách căn bản đầu tiên là bãi bỏ chế độ kiểm duyệt khắc nghiệt, tức là giảm quyền thông tin một chiều của đảng và nhà nước CS, gián tiếp mở rộng quyền tự do thông tin, để tránh nạn hối mại quyền thế (cửa quyền) do các đảng viên thao túng xưa nay.
Đó là những tiền đề của tíên trình dân chủ hóa sơ khai trong đảng, làm bàn đạp lan ra trong xã hội.
Muốn cải tổ hay đổi mới thật sự thì cần công khai hoá mọi chuyện, bằng cải cách căn bản đầu tiên là bãi bỏ chế độ kiểm duyệt khắc nghiệt, tức là giảm quyền thông tin một chiều của đảng và nhà nước CS, gián tiếp mở rộng quyền tự do thông tin, để tránh nạn hối mại quyền thế (cửa quyền) do các đảng viên thao túng xưa nay.
Đó là những tiền đề của tíên trình dân chủ hóa sơ khai trong đảng, làm bàn đạp lan ra trong xã hội.
wikipedia
Perestroika (Russian: перестро́йка; IPA: [pʲɪrʲɪˈstrojkə] ( listen))[1] was a political movement for reformation within the Communist Party of the Soviet Union during the 1980s (1986), widely associated with Soviet leader Mikhail Gorbachev and his glasnost (meaning “openness”) policy reform. The literal meaning of perestroika is “restructuring”, referring to the restructuring of the Soviet political and economic system.
Perestroika (Russian: перестро́йка; IPA: [pʲɪrʲɪˈstrojkə] ( listen))[1] was a political movement for reformation within the Communist Party of the Soviet Union during the 1980s (1986), widely associated with Soviet leader Mikhail Gorbachev and his glasnost (meaning “openness”) policy reform. The literal meaning of perestroika is “restructuring”, referring to the restructuring of the Soviet political and economic system.
Perestroika
is often argued to be the cause of the dissolution of the Soviet Union, the
revolutions of 1989 in Eastern Europe, and the end of the Cold War.[2]
wikipedia
Glasnost
(tiếng Nga: гла́сность, IPA: [ˈɡlasnəsʲtʲ] ( nghe), tạm dịch
là Công khai hóa) là chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa
các hoạt động của những cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận tại
Liên Xô do Mikhail Sergeyevich Gorbachyov đề xướng vào nửa cuối thập niên
1980.[1] Từ này thường xuyên được Gorbachyov nhắc tới để chỉ các chính sách mà
ông tin có thể giúp giảm tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
Liên Xô, và làm giảm việc lạm dùng quyền lực của Trung ương Đảng.
Glasnost còn dùng để chỉ thời kỳ nhất định trong lịch sử Liên Xô hồi thập niên 1980 khi mà người ta ít bị kiểm duyệt hơn và tự do thông tin hơn.
Glasnost còn dùng để chỉ thời kỳ nhất định trong lịch sử Liên Xô hồi thập niên 1980 khi mà người ta ít bị kiểm duyệt hơn và tự do thông tin hơn.
Glasnost
(Russian: гла́сность, IPA: [ˈɡlasnəsʲtʲ] ( listen), lit. “publicity”)
was a policy that called for increased openness and transparency in government
institutions and activities in the Soviet Union. Introduced by Mikhail
Gorbachev in the second half of the 1980s,[1] Glasnost is often paired with
Perestroika (literally: Restructuring), another reform instituted by Gorbachev
at the same time. The word “glasnost” has been used in Russian at least since
the end of the 18th century.[2]
The
word was frequently used by Gorbachev to specify the policies he believed might
help reduce the corruption at the top of the Communist Party and the Soviet
government and moderate the abuse of administrative power in the Central
Committee. Russian human rights activist and dissident Lyudmila Alexeyeva
explained “glasnost” as a word that “had been in the Russian language for
centuries. It was in the dictionaries and lawbooks as long as there had been
dictionaries and lawbooks. It was an ordinary, hardworking, nondescript word
that was used to refer to a process, any process of justice of governance,
being conducted in the open.”[3]
Glasnost
can also refer to the specific period in the history of the USSR during the
1980s when there was less censorship and greater freedom of information.
(còn
tiếp)
No comments:
Post a Comment