David Brown & Bronson Percival - Asia Sentinel
Người
dịch: THA
Posted
by adminbasam on 12/01/2015
Các
nước ven biển Đông vẫn mãi ca bài “mời anh trước … Không, mời anh trước”
Cốt
lõi của vấn đề ở đây là: Trung Quốc sẽ thống trị biển Đông trừ khi có ai đó kiềm
chế họ. Hoa Kỳ và các nước Đông Á, láng giềng của Trung Quốc có thể ngăn cản sự
bành trướng chậm rãi của Trung Quốc, khi và chỉ khi họ nhất trí được cách thức
chia sẻ các rủi ro cũng như chi phí trong việc thuyết phục Bắc Kinh thay đổi ý
đồ.
Trung
Quốc muốn mở rộng lãnh hải của họ. Mục tiêu này nhận được sự ủng hộ rộng khắp của
quần chúng nước này. Tuy nhiên, việc mở rộng như vậy sẽ thách thức quyết tâm
duy trì hiện trạng ở rìa Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Đồng thời, nó cũng sẽ
thách thức nền độc lập của các nước Đông Á láng giềng của Trung Quốc, ngay cả
khi Trung Quốc chỉ muốn các nước này nhượng bộ chứ không phải quy phục hoàn
toàn về vấn đề tranh chấp lãnh hải. Hiện tại, Bắc Kinh có vẻ như đã dứt khoát với
các bước tiến nhỏ tại nơi mang lại lợi thế chiến thuật: đó là vùng biển Đông trải
dài từ đảo Hải Nam xuống phía nam cho tới Singapore.
Phương
thức bành trướng của Trung Quốc đã trở nên rõ ràng. Hãy quên đi “sự trỗi dậy
hòa bình” của Trung Quốc – câu cửa miệng quen thuộc của các nhà ngoại giao nước
này xuyên suốt những năm 2000. Kể từ năm 2009, khi Bắc Kinh tái khẳng định chủ
quyền với khoảng hơn 80% diện tích biển Đông, vùng biển kín lớn nhất thế giới,
Trung Quốc đã chậm rãi bành trướng về phía nam. Các tàu tuần duyên và kiểm ngư
Trung Quốc luôn xuất hiện ở tuyến đầu, tạo thành một vỏ bọc bán vũ trang che đậy
cho quả đấm thép của lực lượng hải quân Trung Quốc.
Các
nhà phân tích trước đây còn tranh cãi liệu Bắc Kinh đang đạo diễn thực hiện ý đồ
bá quyền khu vực biển Đông hay chỉ đang cố gắng quản lý, chỉnh đốn các cơ quan
chấp pháp trên biển dưới quyền mình. Giờ đây không còn gì phải tranh cãi nữa.
Trong những năm gần đây, các chiến thuật của Trung Quốc được phối hợp rất nhịp
nhàng – một sự kết hợp của dọa nạt, tuần tra hàng hải, phong tỏa cục bộ, triển
khai giàn khoan dầu khí, đâm va các tàu đánh cá, và xây dựng cơ sở hạ tầng trên
các bãi cạn và đảo nhỏ. Bắc Kinh đã thiết lập một bộ khung hành chính, dưới cái
tên “Thành phố Tam Sa”, để tiếp quản khu vực bá quyền mới này. Từ năm 2012, đường
chữ U bao trọn khu vực này đã được in chìm lên các hộ chiếu Trung Quốc.
Việc
Trung Quốc theo đuổi bá quyền trên biển Đông đã làm rạo rực con tim của những
người Trung Quốc yêu nước, những người đã thuộc nằm lòng một phiên bản kỳ bí về
vai trò có tính lịch sử của Trung Quốc đối với các vùng biển của châu Á. Nếu ta
bỏ thêm vào câu truyện kỳ bí này quyết tâm của Bắc Kinh muốn gột rửa nỗi sỉ nhục
do các cường quốc châu Âu gây ra cho họ trước đây – vào giai đoạn lịch sử được
gọi là “thế kỷ nhục nhã” – bằng cách trút những sỉ nhục tương tự lên các quốc
gia láng giềng lân cận, ta sẽ thấy một siêu cường quốc bị huyễn hoặc bởi câu
chuyện huyền sử do họ tự dựng nên và bởi thói tự mãn, tự cho mình là công
chính. Trung Quốc dường như đã tự thuyết phục rằng họ đang không làm gì hơn
ngoài thu hồi lại các lãnh hải đã để mất. Hậu quả là, tại Bắc Kinh, người ta
thường quy kết sự phẫn nộ ngày một tăng của các quốc gia châu Á khác với Trung
Quốc là do sự mưu đồ, giật dây của Hoa Kỳ nhằm kiềm tỏa Trung Quốc.
Các
nhà chiến lược Hoa Kỳ chưa nhất trí được phương thức ứng phó với kế hoạch mở rộng
lãnh hải của Trung Quốc. Các chính sách của Hoa Kỳ đã thành công trong việc giữ
cho mối quan hệ Mỹ-Trung tương đối ổn định về tổng thể, nhưng đã thất bại trong
việc kiềm chế sự lên gân của Trung Quốc trong các vấn đề về tranh chấp lãnh hải.
Từ
vài thập kỷ nay, một số chuyên gia Hoa Kỳ đã hình dung rằng Washington có thể
xây dựng một mối quan hệ có tính xây dựng, thậm chí là gần gũi, với siêu cường
đang trỗi dậy của châu Á này, như một hình thức “lưỡng quyền”, trong đó Trung
Quốc đóng vai trò đối tác chân phụ. Theo kịch bản đó, Hoa Kỳ vẫn sẽ là nhà bảo
trợ cho an ninh của Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á, và – theo đúng
nghĩa đen – chính quyền Trung Quốc đối địch với Bắc Kinh, đó là Đài Loan. Bắc
Kinh không thỏa mãn với viễn cảnh đó, và thậm chí còn có thể nhắm đến việc tái
kiểm soát các nước trước đây từng là chư hầu của họ ở vùng Đông Bắc Á. Trước mắt,
mục tiêu đó quá khó khăn. Đông Nam Á là một con mồi béo bở, dễ dàng hơn nhiều.
Các
nhà chiến lược ở các nước Đông Nam Á đã nhanh chóng suy đoán rằng ngay khi Tập
Cận Bình củng cố được quyền lực, Trung Quốc sẽ theo đuổi một chính sách ngoại
giao tự tin, nhưng cũng đồng thời ít gây va chạm hơn. Nhưng suy đoán đó đã sai.
Cho dù ASEAN liên tục hối thúc Trung Quốc chấp nhận Bộ Quy tắc Ứng xử trên biển
Đông, một bộ quy tắc có thể giúp răn đe hay ít nhất là chỉ hướng tháo gỡ các
xung đột trên biển Đông, Trung Quốc dưới quyền Tập Cận Bình không tỏ ra thực sự
mặn mà với kế hoạch này của các nước ASEAN, nói gì đến việc đàm phán đa phương
về các tuyên bố chủ quyền lãnh hải.
Cách
đây vài năm, các nhà phân tích Trung Quốc dường như đã đi đến kết luận rằng các
nước láng giềng quanh vùng phương nam đang xâm hại các lợi ích của Trung Quốc
trong khi chỉ giả vờ đàm phán về các yêu sách chủ quyền. Kể từ 2009, Bắc Kinh
đã không còn tha thiết với việc thỏa thuận các tuyên bố “cùng khai thác” với
các đối tác láng giềng, trừ khi trong đó có điều khoản thừa nhận tuyên bố chủ
quyền của Trung Quốc. Các chiến lược của Trung Quốc đã giúp hình thành một cách
tiếp cận nhất quán và cho đến nay hiệu quả trong việc độc chiếm các vùng biển
lân cận. Cùng lúc đó, giới quân sự Trung Quốc thường cho rằng an ninh của nước
này phụ thuộc vào việc kiểm soát các vùng biển nằm trong “chuỗi đảo thứ nhất”
và cuối cùng là vào khả năng triển khai lực lượng ra Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương.
Những
quan điểm này là nền tảng cho chiến lược của Bắc Kinh và đã dần đẩy Trung Quốc
vào thế đối đầu với Hoa Kỳ. Kể từ Thế chiến 2, chính sách ngoại giao Hoa Kỳ hướng
đến, theo nghĩa rộng nhất, một trật tự thế giới ràng buộc bởi các quy tắc, thuận
theo công pháp quốc tế và bảo vệ cho quyền lợi của tất cả các nước, dù lớn hay
nhỏ. Bất chấp thực tế trớ trêu là dù chưa được Thượng viện Hoa Kỳ thông qua,
Công ước Quốc tế về Luật Biển của LHQ về cốt lõi vẫn là sản phẩm của viễn kiến
về trật tự thế giới kể trên của Hoa Kỳ. Các điều khoản của Công ước về tự do
hàng hải, bảo vệ cho một mạng lưới các tuyến giao thương hàng hải tối quan trọng
cho nền kinh tế toàn cầu, và mang lại một bộ khung cơ chế giúp giảm thiểu nguy
cơ xảy ra đụng độ hàng hải ngoài biển khơi.
Các
nhà chiến lược Hoa Kỳ đã chủ đích tập trung vào cái được cho là “bức tranh toàn
cảnh”, đó là việc trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc trên nhiều phương
diện. Tuy nhiên, việc tập trung vào Trung Quốc như vậy đã đẩy phần còn lại của
châu Á ra ngoài tiêu điểm, và chỉ xem xét quyết tâm theo đuổi tham vọng mở rộng
lãnh hải bằng mọi giá của Trung Quốc chủ yếu trong bối cảnh quan hệ song phương
Mỹ-Trung. Một nhóm các chuyên gia về Trung Quốc lập luận rằng các tranh chấp
trên biển Đông không đủ quan trọng để đánh cược đại cục quan hệ Mỹ-Trung.
Một
nhóm chuyên gia khác nghĩ rằng, làm gia tăng các phí tổn cho Trung Quốc khi
theo đuổi bá quyền sẽ thuyết phục được Bắc Kinh rằng các lợi ích tiềm tàng ở biển
Đông không đáng để phá hỏng quan hệ của họ với Washington. Cả hai nhóm chuyên
gia này đều có thể đã nhận xét đúng về Trung Quốc, nhưng chỉ khi Bắc Kinh cũng
nhìn nhận mọi việc dưới lăng kính quan hệ Mỹ-Trung.
Nhiều
lãnh đạo châu Á dường như tin rằng sự đối đầu Mỹ-Trung sẽ choán chỗ tất cả các
tranh chấp tay đôi của họ với Trung Quốc, và rằng cuối cùng thì Washington sẽ
nhận ra chỉ bằng cách đối đầu một cách trực diện, cứng rắn mới có thể ngăn chặn
được sự thống trị của Trung Quốc, không chỉ đối với biển Đông, mà còn với tất cả
các quốc gia tiếp giáp vùng biển này.
Đã
có ý kiến rằng, thay vì đứng nhìn các quốc gia Đông và Đông Nam Á bị cuốn vào
vòng ảnh hưởng về kinh tế cũng như chính trị không thể cưỡng lại của Trung Quốc,
Washington cuối cùng cũng sẽ đảm nhận gánh nặng ngăn chặn tham vọng của Trung
Quốc, cho phép các quốc gia Thái Bình Dương láng giềng của Trung Quốc có thể
theo đuổi các lợi ích của mình với phí tổn thấp nhất.
Vì
vậy, một vài năm trước đây, dư luận ở nhiều nước châu Á đã rất phấn khích, tràn
trề hy vọng khi những người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố rằng
Hoa Kỳ sẽ “xoay trục” để quay lại Đông Á. Và thêm nữa, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã
dùng ngôn từ mạnh bạo hơn, nhận định một cách xác đáng rằng các động thái của
Trung Quốc là “khiêu khích” và bác bỏ đường chín đoạn của Bắc Kinh là “không có
cơ sở theo luật pháp quốc tế.”
Tuy
nhiên, các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ vẫn bị trói chặt trong các sứ mệnh ở
Trung Đông, bất chấp các cuộc rút quân khỏi Iraq và Afghanistan. Không ai biết
liệu rằng có hay không, hay khi nào thì các vòng thương thảo Hiệp định Đối tác
Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) bất tận, một cấu phần quan trọng
của kế hoạch xoay trục, mới kết thúc, hoặc liệu rằng Quốc hội Hoa Kỳ cuối cùng
sẽ có phê chuẩn cho Hoa Kỳ gia nhập TPP hay không.
Những
người cho rằng Hoa Kỳ không thể cưỡng lại việc đối đầu với Trung Quốc đã nhận định
sai về nền chính trị Hoa Kỳ cũng như tâm thái của công chúng Mỹ. Vẫn còn ám ảnh
với cuộc chiến với Việt Nam nửa thế kỷ trước và mệt mỏi với các cuộc xung đột tại
Trung Đông, công chúng Mỹ sẽ không ủng hộ cho các phí tổn, cả về tài chính lẫn
lực lượng quân sự, để bảo vệ các quốc gia châu Á không sẵn sàng hy sinh để bảo
vệ nền độc lập của chính mình. Hơn nữa, lợi ích sát sườn của những thế lực đã đổ
quân đội cũng như các nguồn lực của Hoa Kỳ để theo đuổi các mục đích thiếu minh
bạch ở Trung Đông sẽ tiếp tục phân tán Hoa Kỳ khỏi châu Á.
Với
ngoại lệ đã được thực tế kiểm nghiệm là Nhật Bản và Philippines, các nước Thái
Bình Dương láng giềng của Trung Quốc ít tỏ ra quyết tâm, điều sẽ giúp họ và các
nước láng giềng của họ đứng lên chống lại Trung Quốc. Ví dụ, không có liên minh
Á-Mỹ nào để có thể quy tụ cùng, một số các tiếng nói có trọng lượng ở Hà Nội vẫn
nhất mực cho rằng thỏa hiệp với Bắc Kinh là đối sách khả dĩ duy nhất. Có lẽ, họ
lo lắng cho sự cầm quyền của Đảng Cộng sản hơn là chủ quyền của Việt Nam, nhưng
có hề gì. Xa hơn nữa về phía nam, Malaysia và Indonesia được cho rằng đang cố gắng
bấu víu, càng lâu càng tốt, vào hy vọng mỏng manh rằng Trung Quốc sẽ giới hạn
tham vọng của mình ở mức buộc Philippines và Việt Nam vào vòng cương tỏa.
Cho
đến khi các quốc gia chủ chốt của ASEAN và các đồng minh của Hoa Kỳ ở châu Á sẵn
sàng chia sẻ phí tổn và rủi ro của việc ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc, Tổng
thống Obama và đội ngũ Hội đồng An ninh Quốc gia của ông sẽ tỏ ra rất cẩn trọng.
Hoa Kỳ sẽ chia sẻ tin tức tình báo, đặc biệt là liên quan đến lĩnh vực cảnh giới
lãnh hải, và tương trợ an ninh một cách có giới hạn, nhưng sẽ không hy sinh đại
cục quan hệ của mình với Trung Quốc bằng cách điều động Hạm đội 7, hoặc triển
khai một lực lượng bán quân sự đáng kể trên biển Đông.
David
Brown
là một nhà báo về Đông Nam Á đương đại, còn Bronson Percival là một nhà
phân tích ở Washington. Cả hai ông đều là các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã nghỉ
hưu.
No comments:
Post a Comment