Tháng 9 4, 2014
Trong phóng sự Vẽ nhọ bôi hề [1], điều tra về các rạp hát và đời đào kép, Vũ Trọng Phụng kể
chuyện một nhà hát ở ta đã „ném sang Tàu“ hàng bạc vạn để mua trang phục, khí
giới biểu diễn.
Nhà hát giải thích: „Làm thế nào được! Chúng tôi vẫn
muốn thửa tại các cửa hiệu của người mình lắm chứ… Nhưng đồ đã đắt mà lại chóng
hỏng, chúng tôi cứ nghĩ mãi đến đồng bào thì để rạp hát đóng cửa ư? Một đôi hia
của Tàu, giá hai chục bạc, không kể thêu đẹp, dùng được đến hai năm. Một đôi
hia thửa của ta, cũng ngần ấy tiền, đã không được đẹp thì thôi, lại dùng chưa
quá một năm đã hỏng! Hai nữa, thợ ta không biết pha màu. Người Tàu không bao
giờ họ lại dùng những chỉ: đen, đỏ thẫm, vàng ệch với xanh lơ để thêu một cái
áo. Cái áo lụa xanh da giời thì phải những hoa xanh thẫm với những ngân tuyến
điểm tô cho. Họ không chịu để cho đồ thêu những màu gay gắt. Còn người mình…
thì thôi!“ Ông này, sau khi thử thách tác giả, cho đoán thử hai cái mũ, cái nào
của ta cái nào của Tàu, kết luận: „Nếu ông chỉ trông thấy xấu cũng đủ nhận được
người thợ làm đồ thì đừng vội vàng trách chúng tôi. Mĩ thuật của người Việt Nam
dễ nhận ra vì… vì trông nó xấu!“
Đó là 1934, tròn 80 năm trước, Pháp thuộc chứ không
phải Bắc thuộc, “Pháp-Việt đề huề” chứ không phải mười sáu chữ vàng Việt-Trung,
song ngôi trên của văn hóa Trung Hoa vẫn thấm vào tận đường kim mũi chỉ trên
xống áo đào kép. Ghét lắm nhưng không bỏ được. Ngày nay người Việt chê Tàu kém
chất lượng. Bõ ghét được vài phút, song ở Việt Nam mĩ thuật Trung Hoa vẫn thống
trị từ trong nhà ra ngoài đường.
*
Vẫn theo Vũ Trọng Phụng trong phóng sự nói trên, bản
thân cái nghệ thuật sâu khấu ấy là „một sự sáng kiến của Trung Quốc, làm quen
với dân mình vào hồi Đức Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên. Trong đám tù binh
Tàu có tên lính Lý Nguyên Cát trong ngục cũng vẫn hát hỏng cho tù binh khác
khuây khỏa nỗi lo buồn – việc làm tiêu thời giờ trong lúc ưu nhàn bất đắc dĩ.
Thấy sự lạ, lính canh tù bẩm lên quan trên. Người ta hỏi Lý Nguyên Cát, y cắt
nghĩa hết. Theo lệnh của Đức Trần Hưng Đạo, Lý Nguyên Cát bèn diễn một tấn
tuồng do y soạn ra. ‚ Vương Mẫu hiến đào‘ là tấn tuồng trước tiên diễn trên mặt
đất của Đức Đại Việt Hoàng đế, kép hát gồm 12 người, nam ban đóng giả nữ ban.
Họ mặc áo gấm vóc, múa hát theo điệu đàn sáo, kèn, trống thành hẳn một khúc âm
nhạc có tiết tấu và theo tích hát có thể khiến người „Ố Nàm“ mình phải vui mừng
giận ghét hẳn hoi. Sau buổi diễn, Lý Nguyên Cát với 12 tù binh kia nghiễm nhiên
trở nên những ông giáo sư dạy tuồng! Đến đời Trần Dụ Tông, các khanh tướng
vương hầu nhận thấy chiếu của Vua truyền soạn tích hát. Rồi từ đó trở đi, những
buổi dạ yến đều có tiếng trống kèn vang lừng hoàng cung.“
Thuở ấy mà Đức Thánh Trần quyết liệt tảy chay sản
phẩm Trung Quốc hay chống xâm lăng văn hóa thì ngày nay người Việt đã không có
những dòng âm nhạc và sân khấu âm nhạc được coi là văn hóa truyền thống của
mình, từ hát bội đến nhã nhạc cung đình, từ nhạc tài tử đến cải lương và vọng
cổ. Song Ngài có tư thế để cởi mở, để liberal như vậy, Ngài ba lần đánh
tan quân Nguyên Mông, đứng trên mọi nghi ngờ quỳ gối trước phương Bắc.
© 2014 pro&contra
[1] Vũ Trọng Phụng. Vẽ nhọ bôi hề – Những tác phẩm mới tìm thấy
năm 2000. Peter Zinoman sưu tầm. Lại Nguyên Ân giới thiệu và chú thích. Nxb
Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa Phương Nam. 2004.
*
Tháng 9 9, 2014
Xem
kì 1
Từ mấy năm nay sư tử đá Trung Quốc đã bị vạch trần chân
tướng là những kẻ xâm lăng văn hóa. Đem chúng đặt trước chùa chiền, công sở,
dinh thự là
giao cho những tên lính ngoại quốc đứng canh cửa nhà mình, khiến mình không
thể sống yên ổn. Là phạm tội rước sư tử về giày mồ mả văn hóa dân tộc, khiến
Việt Nam thành cái đuôi văn hóa của nước ngoài hay bị „suy yếu vị thế“ trong
các cuộc „đối thoại văn hóa quốc tế“. Năm nay trong tinh thần „thoát Trung“
toàn diện, có lẽ chúng sẽ là những Hoa kiều đầu tiên bị trói gô, quăng lên xe
tải, tống vào trại tập trung cho đến khi cải tạo tốt, hết nhe nanh giơ vuốt,
hoặc bị trục xuất và tiêu diệt hàng loạt.
Tình hình nghiêm trọng ấy khiến tôi không thể không
xem kĩ lại chân dung kẻ xâm lược.
Có
chuyên gia giải thích với tất cả sự nghiêm túc rằng sư tử ta thì trông
„hiền lành, hướng nội“, vì „người Việt Nam chủ yếu là nông dân, tính tình hiền
lành chất phác“, trong khi sư tử Tàu thì „hình tướng dữ dằn, mang tính đe dọa“
vì Tàu có một „kinh tế thương mại phân hóa cao“. Như thể con cháu Lạc Long Quân
thì cày ruộng, trong khi con cháu Thần Nông thì đi buôn. Một
chuyên gia khác kĩ lưỡng hơn, phân biệt rõ sư tử ta không có răng nanh ở
hàm dưới, trong khi sư tử Tàu đầy răng cả hai hàm, nanh hàm dưới còn sắc và rõ
hơn nanh hàm trên. Quả là hung tợn!
Các giám định hình tướng và nha khoa này thật thú
vị, nhất là khi cả ta, cả Tàu, cả Đông Á và Đông Nam Á vốn đều không biết đến
con sư tử. Nó là con vật ngoại lai cả ở Trung Quốc, với tên sư tử (獅子), lẫn Việt Nam, cũng tên sư tử.
Tôi không tin có người nông dân, nghệ nhân hay thậm chí vua quan đời Lý nào
từng trực tiếp nhìn vào mắt nó, đếm răng trong miệng nó để vĩnh cửu nó trong
chân dung đôi sư tử đá Chùa Phật tích mà chúng ta nhất quyết khẳng định là
thuần túy Việt Nam.
Song triều đình của vua Lý Thánh Tông đã không dẹp
nạn linh vật ngoại lai, mà ai từng ghé các nước Đông Á và Đông Nam Á hoặc chỉ
cần sượt qua mạng đều dễ dàng tìm thấy cả những con sư tử mặt mũi hiền lành và
móm răng – thậm chí móm luôn cả nanh hàm trên lẫn nanh hàm dưới – và những con
sư tử dữ tợn khoe nanh vuốt ở cả Trung Quốc lẫn hầu hết các nước khác. Chỉ
riêng mấy trăm con trên Cầu Lư Câu ở Bắc Kinh đã cho thấy phong cách khác nhau
của mỗi thời đại Trung Hoa. Càng về sau chúng càng mô phỏng hiện thực sát hơn,
đương nhiên, trong khi trước đó nhiều thế kỉ chúng hoàn toàn phó thác diện mạo
mình cho trí tưởng tượng của từng nghệ nhân, thậm chí không có nanh, vuốt,
không có cả giới tính và nhiều khi trông như một ước mơ có cánh.
Tôi yêu nhất trên cây cầu này một em sư tử vừa ngố
vừa thương, giống một chú cún lạc mẹ đang ngoẹo đầu ngơ ngác nhìn khách du
lịch. Không thể hiền lành hơn.
Một chàng thạch sư ở Công viên Bồng Lai, Thượng Hải,
đời Nguyên, thì cực kì hướng nội. Trán lồi, mắt sâu, mũi gãy, miệng dài
đến mang tai, tứ chi gày nhom, chồm hổm ngồi buồn như con chó giữ nhà vắng chủ.
Hay có phần giống con nghê mà giới chuyên gia nước
nhà phong là linh vật thuần Việt và đang được cổ vũ đem ra thay thế con
sư tử ngoại lai.
Nghê là một câu chuyện dài. Ngẫu nhiên Trung Quốc có
một linh vật, tên toan nghê (狻猊). Tàu cóp tên đồ ta hay ta cóp tên đồ Tàu? Con nghê văn hóa Việt hay con toan nghê văn hóa Hán ra đời trước? Những câu hỏi giản dị này chưa được giải đáp, tuy nhiên chúng ta biết ba điều. Một là xuất xứ của con nghê Hán được chính người Tàu xác nhận: trong Tây du kí,
Đường Đại Cao tăng đã thuyết rằng „toan nghê tức sư tử dã, xuất Tây vực“,
mà Đại Việt không nằm ở hướng Tây. Hai là nhân vật Đặng Phi trong Thủy hử
được mệnh danh là „hỏa nhãn toan nghê“. Ba là nghê Tàu giống nghê ta đến đáng
ngờ.
Lúc thì nó cũng nhiều phần khuyển hơn phần sư, như
con nghê đời Nguyên này trong Công viên Bồng Lai ở Thượng Hải.
Lúc thì mặt mũi nó cũng láu lỉnh, như con nghê này ở
Chùa Quan Độ, Đài Bắc, và phần lớn thì nó giống một con sư tử cách điệu. Nhưng
khác với nghê ta, nghê Tàu không cần Bộ Văn hóa Trung Quốc khuyến khích vẫn
sinh sôi nảy nở mạnh, đi đâu cũng gặp, từ công viên đến đồ chơi, đồ trang sức,
đồ lưu niệm, đồ thờ cúng. Việc đám nghê này đổ bộ vào Việt Nam chỉ còn là vấn
đề thời gian. Có lẽ khi ấy các hiệp sĩ văn hóa dân tộc sẽ chỉ ra rằng con nghê
ngoại lai không nuột nà, mềm mại, dân gian như con nghê thuần Việt, mà đầy vẻ
hống hách bá quyền. Nếu chưa đủ độ phân biệt thì thêm giám định răng trên răng
dưới.
Như thể chưa đủ rắc rối, con nghê ấy cũng thản nhiên
xuất hiện ở nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á khác: Nhật Bản, Triều Tiên, Thái
Lan, Miến Điện… Ở Nhật nó đặc biệt phổ biến với tên komainu, cũng nửa sư
nửa khuyển, cũng giống nhiều phiên bản nghê Việt đến đáng ngờ. Song khác với
người Việt, người Nhật không nhận nó là linh vật thuần Nippon, mà sòng phẳng
chỉ ra rằng nó đến từ Trung Hoa, qua ngả Triều Tiên.
Trở lại với con sư tử. Một vị hòa thượng nổi tiếng,
đại biểu Quốc hội, đã khai sáng cho những kẻ nhầm lẫn rằng tòa sư tử (nghê tòa)
sở dĩ có tên như vậy vì tiếng thuyết pháp của các nhà sư như tiếng rống của sư
tử, đánh bạt điều xấu, chứ không có con sư tử cụ thể nào ở đó. Ông tuyên bố „chùa triền [sic!]
là nơi thờ tự tôn nghiêm, ngoài bốn con vật linh là Long, Ly, Quy, Phượng thì
không nên xuất hiện những linh vật khác không phù hợp với văn hóa truyền thống.
Phải giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.“
Cả bộ tứ linh lẫn chùa chiền Phật giáo đều đến từ
những nền văn hóa bên ngoài nước Việt. Điều đó chẳng những không đáng buồn mà
đáng mừng, vì nếu dân tộc này có một bản sắc văn hóa thì đó chính là khả năng
chiết trung, dung hợp, tổng hòa, cộng sinh bất diệt của nó. Cái kho hàng nhập
khẩu vĩ đại đó đương nhiên là một thử thách khổng lồ, và cách đầu hàng hùng hổ
nhất là hôm nay đòi thanh lí món này, ngày mai đòi thanh lí món kia, hôm nào
cũng nhân danh truyền thống và bản sắc, hôm nào cũng chiêu hồn nước. Để dễ hình
dung: chiêu hồn nước bằng tứ linh để thanh lí sư tử trong chùa nhà Phật có thể
sánh với chiêu hồn nước bằng Tôn Dật Tiên để thanh lí Victor Hugo trong Thánh
thất Cao Đài.
Bất chấp sự dị ứng sư tử của vị hòa thượng Việt Nam,
ngôi chùa Wat Thammikarat đẹp đổ nát xiêu lòng ở Thái Lan từ thời các vua Xiêm
được hẳn một tập thể hùng hậu 52 con đứng trấn.
Người Việt mê võ hiệp từ mấy thế hệ, chẳng lẽ không
biết cặp sư tử oai vệ trước ngôi chùa huyền thoại, chùa Thiếu Lâm? Tìm một ngôi
chùa ở Nhật Bản không có sư tử có lẽ khó hơn ngược lại.
Shíshī or not shíshī? Để công bằng với những con sư tử đá Trung Quốc, những người đang hăng say
bảo vệ chủ quyền văn hóa Việt Nam sao không đặt câu hỏi: Rồng ta hay rồng Tàu?
Quan Công ta hay Quan Công Tàu? Tượng Phật ta hay tượng Phật Tàu? Ngoài ra,
Phật Thái Lan và Phật Đài Loan đang rất được ưa chuộng, Phật nào hợp bản sắc
Việt Nam hơn? Phần lớn đồ thờ cúng và thậm chí đồ lưu niệm bán cho khách du
lịch tại Việt Nam hiện nay cũng là hàng Tàu. Trong những gì nhà Nguyễn và triều
đình Huế – vương triều thoát Trung nhiều nhất về quan hệ chính trị, đồng thời
là đỉnh cao của sự tự nguyện rập khuôn Trung Hoa – để lại, của ta còn bao nhiêu
sau khi trừ đi phần của Tàu?
Mới đây, trang tin BBC đăng ảnh
chụp khu tưởng niệm những người được gọi là các chiến sĩ Nhật Bản „tuẫn nạn cho
Nhật hoàng Chiêu Hòa“ (昭和殉難者, Shōwa junnansha) ở chùa Okunoin. Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đi viếng
tội phạm chiến tranh. Nhà văn Nhật nổi tiếng Naoki Hyakuta, đồng thời nằm trong
ban lãnh đạo tập đoàn truyền thông nhà nước NHK, phủ
nhận vụ Thảm sát ở Nam Kinh. Sách giáo khoa Nhật trong trường phổ thông nhất
loạt được sửa lại vì chủ quyền ở Điếu Ngư. Những
tác phẩm „hiềm Trung, ghét Hàn“ (kenchu-zokan) thành hẳn một thể
loại, chiếm riêng một góc trong tiệm sách, được giới trẻ Nhật yêu thích.
Song hai con sư tử đặc Tàu vẫn nhe răng ở đó, trong
ngôi chùa Nhật của họ, canh giấc ngàn thu cho những người Nhật đã tàn sát, hãm
hiếp, hủy diệt vô độ ở chính Trung Quốc.
Người Việt thì trút hận lên đầu mấy con thạch sư.
Tôi chẳng ưa gì chúng, song tôi tin rằng sẽ có ngày chúng tự động biến mất.
Không phải vì chủ quyền văn hóa Việt Nam sẽ được xác lập, mà đơn giản vì thế hệ
của cái thẩm mĩ khủng khiếp này rồi cũng qua đi. Họ treo tranh „Mã đáo thành
công“. Họ mặc áo dài thêu rồng và bên ngoài khoác thêm chiếc vét cán bộ màu be.
Họ đắp núi giả và gò hòn non bộ. Họ xây chùa xanh đỏ. Họ ngồi trên gụ, ngủ trên
trắc, chết trên sưa. Họ nuốt chửng sừng tê, nhau thai, óc khỉ, mắt đại bàng, tổ
yến và bào thai rắn. Họ đắp mặt nạ vàng để mong da trắng. Họ chơi siêu sim,
siêu xe và siêu tâm linh. Họ khai thác một tài nguyên mênh mông là những kẻ
không có lựa chọn nào khác ngoài dùng hàng Tàu giá rẻ. Mặt họ là cuốn sổ khai
sinh ghi rõ, đã đẻ ra bao nhiêu con sư tử đá bị đổ oan là bầy quân xâm lăng.
__________
Ảnh 1: Sư tử đá trên Cầu Lư Câu, Bắc Kinh, Trung
Quốc
Ảnh 2: Sư tử đá tại Công viên Bồng Lai, Thượng Hải,
Trung Quốc
Ảnh 3: Toan nghê trong Công viên Bồng Lai, Thượng
Hải, Trung Quốc
Ảnh 4: Toan nghê ở Chùa Quan Độ, Đài Bắc, Đài Loan
Ảnh 5: Sư tử đá ở chùa Wat Thammikarat, Thái Lan
Ảnh 6: Sư tử đá ở Thiếu Lâm Tự, Trung Quốc
Ảnh 7: Sư tử đá ở chùa Okunoin, Nhật Bản
© 2014 pro&contra
No comments:
Post a Comment