03.09.2014
Với
các nạn nhân bị bắt cóc như nhà báo James Foley hay Steven Sotloff, chắc hẳn
không có mong muốn gì hơn đối với họ là được giải cứu, dù dưới hình thức một
cuộc đột kích hay dưới hình thức một cuộc thương lượng. Đối với Foley, đã có
một cuộc đột kích như vậy nhưng không thành, còn một cuộc thương lượng thì chưa
bao giờ được thực hiện. Điều này là do chính sách cứng rắn của Mỹ từ trước tới
nay – không đàm phán với khủng bố.
Mỹ
nằm trong một số rất ít quốc gia có lập trường cứng rắn như vậy. Mỹ và Israel
luôn tuyên bố không chấp nhận đàm phán với khủng bố, trong khi Columbia thậm
chí còn đưa mọi dạng hành vi liên lạc với những kẻ bắt cóc con tin thành hành
vi bất hợp pháp. Phần lớn các nước khác, đặc biệt là Châu Âu, đều đàm phán với
khủng bố và các nhóm bắt cóc đòi tiền chuộc. Việc mặc cả, đàm phán này nhiều
khi diễn ra như cơm bữa, đặc biệt là tại các địa bàn “nóng” về bắt cóc đòi tiền
chuộc như vùng Somalia.
Lập
luận cơ bản của các quốc gia khi từ chối đàm phán với khủng bố bắt nguồn từ một
niềm tin cơ bản. Đó là việc nhượng bộ tại thời điểm này sẽ khuyến khích các
hành vi khủng bố, bắt cóc phát triển mạnh hơn trong tương lai. Tuy nhiên, vấn
đề không đơn giản chỉ có như vậy. Nếu chỉ có vậy thì tại sao lại có quốc gia
sẵn sàng đàm phán với khủng bố trong khi một số quốc gia khác thì không?
Ngay
cả với các quốc gia luôn tuyên bố không đàm phán với khủng bố như Mỹ thì thi thoảng
việc đàm phán vẫn diễn ra. Gần đây nhất, mới
đầu mùa hè 2014, là vụ trao đổi 5 nghi phạm khủng bố bị giam giữ tại
Guantanamo Bay để đổi lấy Bowe Bergdahl, một quân nhân Hoa Kỳ bị lực lượng
Taliban bắt giữ. Trước đó hồi năm 2007 cũng có một
vụ trao đổi khác: Peter Moore, một cố vấn người Anh bị bắt giữ, được cứu
thoát trong một cuộc trao đổi tù binh, theo đó một cựu lãnh đạo cấp cao của lực
lượng phiến quân người Shiite được Mỹ thả ra.
Không
chỉ có Mỹ, Israel cũng từng thực hiện những vụ đổi chác lớn với khủng bố. Hồi
năm 1985, Israel đã thả cùng một lúc 700 tù binh để đổi lấy sinh mạng của những
người Mỹ bị bắt cóc trên chuyến bay TWA (chuyến bay bị khủng bố tấn công).
Điều
này tạo ra một mâu thuẫn: Nếu nguyên tắc “không đàm phán với khủng bố” được xây
dựng trên một chuẩn mực lý thuyết vững chắc, tại sao các nước vẫn đàm phán với
khủng bố? Hay là điều này không đúng? Trong một
nghiên cứu định lượng của nhóm các nhà kinh tế do Peren Arin (giáo sư ĐH
Massey của New Zealand) đứng đầu, nhóm này đã chứng minh được (bằng các phương
pháp định lượng dựa trên số liệu về các vụ bắt cóc trong quá khứ) rằng nếu các
chính phủ càng nhượng bộ thì hoạt động khủng bố, bắt cóc sẽ càng tăng.
Vậy
phải giải thích sao trước hành động của các nước liên quan đến các vụ thương lượng
với khủng bố?
Kinh
tế học có một nhánh nghiên cứu mang tên game theory. Theo lý thuyết này,
nếu tương tác chỉ xảy ra một lần, thí dụ một nhà nước và một nhóm khủng bố chỉ
phải đối diện với việc thương lượng hay không duy nhất một lần, sau đó không bao
giờ lặp lại, thì nhà nước sẽ thương lượng. Điều này tốt cho phía nhà nước vì
được tiếng là sẵn sàng làm mọi cách để bảo vệ công dân nước mình.
Tuy
nhiên thực tế là các tương tác này không chỉ xảy ra một lần. Các nhóm khủng bố
vẫn thường xuyên bắt cóc con tin, và nhà nước phải đối diện với quyết định
thương lượng hay không nhiều lần. Game theory chỉ ra rằng nếu cả hai bên đều
nhìn nhận là các tương tác này diễn ra mãi mãi (infinitely repeated games)
thì nhà nước sẽ không bao giờ chấp nhận đàm phán. Và khi nhà nước không bao giờ
chấp nhận đàm phán, các nhóm khủng bố cũng không có động cơ bắt cóc để đòi tiền
chuộc hoặc trao đổi con tin.
Cái
thú vị là ở chỗ game theory cũng chỉ ra rằng cho dù các tương tác là lặp lại
nhưng có hạn định, tức là có điểm kết thúc (finitely repeated games), dù
là điểm kết thúc ấy gần hay xa, thì nhà nước sẽ nhượng bộ và tiến hành đàm
phán.
Và
nếu nhìn sự lựa chọn của các nước liên quan đến việc đàm phán hay không với
khủng bố dưới lăng kính này của game theory thì có thể thấy các nước thường
xuyên đàm phán với khủng bố là những nước mà lãnh đạo có tư duy nhiệm kỳ hơn.
Vì với tư duy nhiệm kỳ, họ không coi việc họ phải đối mặt với các lựa chọn này
là việc vĩnh viễn (infintely repeated) mà nó sẽ hết khi họ không còn nhậm chức.
Nếu với tư duy này, các nhà lãnh đạo sẽ không muốn chứng kiến công dân nước
mình bị hành quyết trong nhiệm kỳ của mình, vì thế hãy cứ đàm phán để cứu người
và lập công trước công chúng trước đã, còn việc hoạt động khủng bố tăng lên sau
đó thì đã có lãnh đạo khoá sau lo.
Đương
nhiên đây chỉ là một cách suy luận dựa trên một lý thuyết, nó không hẳn chính
xác, tuy nhiên nó cũng là một góc nhìn đáng được suy ngẫm.
* Blog của Tiến sĩ
Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa
Kỳ.
-------------
WASHINGTON — Hu
Wei-VOA
03.09.2014
Sau
những cái chết của các ký giả Mỹ James Foley và Steven Sotloff, một cuộc tranh
luận đã bùng ra về việc liệu Hoa Kỳ lẽ ra nên nộp tiền chuộc mạng cho nhóm Nhà
nước Hồi giáo để các con tin này được thả.
Tin
tức cho hay Nhà nước Hồi giáo đòi hàng triệu đôla trước khi hành quyết ông
Foley trước máy thu hình. Chưa rõ liệu những yêu sách tương tự có được đưa ra
để ông Sotloff được thả trước khi bị sát hại hay không.
Ông
Philip Balboni, chủ tịch GlobalPost, hãng tin mạng đã thuê ông James Foley, cho
biết cha mẹ ông Foley biết rằng chính phủ Hoa Kỳ cấm trả tiền chuộc cho những
kẻ bắt cóc, và họ tìm cách cứu con trai của mình bằng cách gây quỹ. Ông Balboni
nói nhà chức trách Hoa Kỳ biết rõ về những nỗ lực của cha mẹ ông Foley, nhưng
đã không ngăn cản họ.
Ông
Balboni nói: “Gia đình nhất định gây quỹ
để nộp tiền chuộc mạng. Những kẻ bắt cóc không hề xác định dứt khoát số tiền
chuộc. Việc thượng lượng chưa hề đi đến chỗ kết thúc. Rõ ràng ngay từ đầu rằng
gia đình sẽ nộp khoản tiền chuộc nếu có cơ hội.”
Bà
Deborah Pearlstein, giáo sư tại Trường Luật Cardozo của trường Đại học Yeshiva,
nói rằng hiện không có bộ luật nào cấm chính phủ Hoa Kỳ nộp tiền chuộc mạng hay
thương thuyết với các tổ chức khủng bố.
Bà
nói: “Trên nguyên tắc, Quốc hội có thể
thông qua một bộ luật cấm ngành hành pháp làm như thế, nhưng quốc hội chưa hề
làm như thế. Vì vậy khi chính phủ Hoa Kỳ nói: chúng
ta không thương lượng với các phần tử khủng bố hay chúng ta không nộp tiền
chuộc hoặc những thứ có bản chất đó, thì họ đưa ra những khẳng định về chính
sách của Hoa Kỳ, chứ không phải là điều mà họ buộc phải làm theo luật định.”
Nhưng
ông John O. McGinnis, giáo sư luật tại trường Đại học Northwestern, nêu ra rằng
đưa tiền cho một số tổ chức nào đó là trái luật, ngay cả nếu như nộp tiền chuộc
không bị coi là phi pháp.
Ông
giải thích: “Tôi nghĩ nói chung, luật lệ
của Hoa Kỳ không ngăn cấm tư nhân nộp tiền cho những kẻ bắt cóc, ít nhất là
theo luật liên bang. Nhưng luật sẽ không cho phép họ nộp tiền chuộc cho
al-Qaida hay các thực thể khủng bố khác bị cấm nhận tiền của Hoa Kỳ theo các
quy định của Bộ Tài chính.”
Ông
Daniel Benjamin, một cựu phối hợp viên chống khủng bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
và đương kim giám đốc của Trung tâm Trao đổi Quốc tế John Sloan Dickey của
trường Đại học Dartmouth, nói rằng luật lệ chưa hề được chính phủ Hoa Kỳ áp
dụng trong những trường hợp tiền chuộc.
Ông
Benjamin nói: “Tôi áng chừng, về phương
diện nguyên tắc, Hoa Kỳ có thể truy tố người về tội ủng hộ khủng bố nếu họ nộp
tiền chuộc, nhưng chính phủ đã quyết định không làm như thế vì sẽ không được
ủng hộ khi trừng phạt những người đang gặp thảm cảnh như một vụ bắt cóc trong
gia đình mình.”
Hiện nay, có nhiều
hiệp ước quốc tế và các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngăn cấm
việc gửi các ngân khoản cho các tổ chức khủng bố.
Tuy
nhiên, tính đến nay, chưa có cá nhân hay công ty nào bị áp dụng các biện pháp
pháp lý vì trả tiền chuộc cho các tổ chức khủng bố để chuộc mạng cho một người
thân trong gia đình hay một nhân viên làm việc cho mình.
No comments:
Post a Comment