Được đăng ngày Thứ tư, 30 Tháng 11 -0001 00:00
1.Đã đến lúc bàn về chuyện đa đảng?
Một sự kiện chính trị đang diễn ra sôi nổi
và thu hút được sự chú ý đặc biệt của người dân Việt Nam qua các trang mạng
điện tử cũng như trong dư luận tại Việt Nam là việc lấy ý kiến đóng góp cho Dự
thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992. Đỉnh điểm của sự kiện này là “Bản Kiến nghị về sửa
đổi Hiến pháp 1992” của 72 nhân sĩ trí thức hàng đầu của Việt Nam, ngoài việc
đưa ra bảy (7) kiến nghị về “quyền lập hiến, quyền con người, sở hữu đất
đai, tổ chức nhà nước, lực lượng vũ trang, trưng cầu dân ý đối với Hiến Pháp và
thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến Pháp” bản Kiến nghị này còn mạnh dạn đưa
ra một bản dự thảo Hiến pháp khác với bản dự thảo của Quốc hội Việt Nam.
Khoan hãy nói đến kết quả và nội dung của
bản Kiến nghị và bản dự thảo Hiến pháp mới của 72 vị nhân sĩ thì chỉ riêng với
việc soạn thảo một bản Hiến pháp với những tiêu chí dân chủ và mang tính thời
đại cùng với việc công bố rộng rãi nó cũng đã là một bước tiến đáng kể trong tư
duy của giới trí thức tinh hoa Việt Nam. Trí thức Việt Nam đã phần nào hiểu
rằng việc dẫn dắt, định hướng và lãnh đạo đất nước phải do chính họ đảm nhiệm,
không ai khác có thể làm thay cho họ.
Trí thức Việt Nam đã bước đầu vượt qua được tâm lý và di sản lịch sử “vua-tôi”
để đứng lên nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn quần chúng.
Trí thức Việt Nam có lẽ, cần đồng thuận với
nhau một điều căn bản: Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước mà các lực lượng dân
chủ Việt Nam đang theo đuổi phải là cuộc cách mạng của tri thức. Đó là cuộc đấu
tranh bằng tư tưởng, bằng lời nói, bằng sự thuyết phục và sự đồng thuận chứ
không thể là cuộc đấu tranh bằng bạo lực của Búa và Liềm như đảng cộng sản đã
và đang thực hiện. Nếu chúng ta đồng ý như vậy thì muốn hay không, giới trí
thức Việt Nam phải nhập cuộc, phải đi đầu và tiên phong trong mọi hoàn cảnh. Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước, vì vậy
nó còn là cuộc đấu tranh để “giải phóng” trí thức.
Điều nổi bật nhất, gây được sự chú ý và
đồng thuận nhất của đa số người dân Việt Nam theo dõi sự kiện “sửa đổi Hiến
pháp” lần này đó là yêu cầu bỏ điều 4 Hiến pháp 1992, tức là yêu cầu đảng cộng
sản Việt Nam chấp nhận cuộc chơi dân chủ, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng với
các đảng phái chính trị khác không cộng sản. Sự đồng thuận này đến từ mọi thành
phần trong xã hội, trong cũng như ngoài nước. Một nước Việt Nam đa đảng là đòi
hỏi đầu tiên và quan trọng nhất đối với tất cả người dân Việt Nam. Như vậy,
việc đề cập và bàn luận về đa nguyên, đa đảng bắt đầu được người dân và cả giới
trí thức Việt Nam quan tâm và tìm hiểu. Đây là một sự tiếp cận mới về chính trị
rất đáng khuyến khích trao đổi.
Sự “đổi mới tư duy” này có được sau khoảng
thời gian dài mà người dân Việt Nam, giới trí thức và giới “đối lập trung
thành” đã tìm mọi cách góp ý, khuyên bảo, năn nỉ, van xin… chính quyền, nhưng
không thành. Rõ ràng là không thể có chuyện “dân chủ độc đảng”, đã là dân chủ
thì phải có đa đảng. Chính trị cũng như kinh tế, phải có cạnh tranh thì người
dân mới có thể hưởng lợi, mới có quyền đòi hỏi và mới được chính quyền phục vụ
tốt nhất. Cạnh tranh sinh ra đạo đức và công bằng xã hội.
2.Một đảng chính trị cần có những điều kiện gì?
Có một số câu hỏi cần thảo luận một cách
nghiêm túc và rõ ràng là: Thế nào là một đảng chính trị? Thành lập và duy trì
một đảng chính trị dễ hay khó? Việt Nam có bao nhiêu đảng chính trị đúng nghĩa,
và nó như thế nào?... Chúng ta hãy cùng nhau xem xét.
Đầu tiên, thế nào là một đảng chính trị
(một chính đảng)? Một đảng chính trị là tập hợp của những người cùng chia sẻ
một lý tưởng chính trị với mong muốn tham gia vào chính trường để thay đổi xã
hội và phụng sự nhân dân. Theo ông Nguyễn Gia Kiểng thì “một chính đảng đúng
nghĩa được quan niệm như là một dụng cụ để thể hiện một tư tưởng chính trị
nghiêm túc và để thực hiện một dự án chính trị đúng đắn”. Điều kiện cần và
đủ của một chính đảng đó là: có một tư tưởng chính trị nghiêm túc; một vị
lãnh đạo có hiểu biết, lương thiện và bao dung; một đội ngũ nòng cốt gắn bó và
đoàn kết; có những hoạt động thường xuyên, có sự phân công, tổ chức và lãnh đạo
rõ ràng; có sự kế thừa;…Trong các yếu tố trên thì hai yếu tố “xây dựng một
tư tưởng chính trị” và “ xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt” là hai yếu tố
cực kỳ quan trọng và mất rất nhiều thời gian. Đảng cộng sản Liên-xô của Lê-nin
(trước đây) trên thực tế hoàn toàn là một tổ chức khủng bố nhưng Lê-nin cũng
phải dựa vào học thuyết cộng sản của Mác và Ăng-gen, sau đó xào nấu lại thành
chủ nghĩa Mác-Lênin. Rồi thì các đảng cộng sản như Trung Quốc, Cu ba, Bắc Triều
Tiên và Việt Nam đều phải dựa trên học thuyết đó để biện minh cho sự độc tài và
toàn trị của mình.
Tại Việt Nam, dù hoang tưởng nhưng chủ
nghĩa Mác-Lênin cũng đã mê hoặc được rất nhiều người dân và cả trí thức để rồi
mới có cách mạng Tháng 8 năm 1945 và chiến thắng 1975. Hiện tại dù ban lãnh đạo
đảng cộng sản Việt Nam và nhiều người dân Việt Nam không còn tin vào chủ nghĩa
Mác-Lênin nữa nhưng chính quyền không thể vứt bỏ nó vì nếu không có nó thì đảng
cộng sản hoàn toàn trần trụi về tư tưởng. Chủ nghĩa Mác-Lênin như cái áo đã
rách nát nhưng không mặc nó thì chỉ còn cách cởi trần mà cởi trần thì chứng tỏ
chính quyền là vô lý và vớ vẩn.
Nói như vậy để chúng ta thấy được sự quan
trọng tột bậc của việc xây dựng một tư tưởng chính trị cho một quốc gia. Không
có tư tưởng chính trị đúng đắn và nghiêm túc thì không một quốc gia nào có thể
thịnh vượng và phát triển. các nước Châu Phi dù có dân chủ, đa đảng và bầu cử
tự do nhưng vẫn cứ kiệt quệ trong nghèo đói và chiến tranh. Hay mới đây nhất là
tại các nước Ả Rập như Tunisia, Lybia và Ai Cập… sau khi lật đổ được các nhà
độc tài một cách ngoạn mục với tên gọi “Mùa Xuân Ả Rập”, các nước này tiếp tục
rơi vào bất ổn với sự chiến thắng của các đảng Hồi giáo cực đoan với âm mưu
dựng lên một nhà nước độc tài kiểu mới. Nhân dân các nước Ả Rập lại phải xuống
đường, tiếp tục đấu tranh để cuộc cách mạng mà họ vừa giành được không bị đánh
cắp một lần nữa.
Năm 1945, đảng cộng sản Việt Nam đã cướp
được chính quyền chỉ với 5000 đảng viên, nhưng giờ đây với gần 4 triệu đảng
viên thì sự tồn vong của chế độ đang trên bờ vực thẳm. Tại sao như vậy? Rõ ràng
là 5000 đảng viên trước đây có sự dấn thân, lý tưởng, gắn bó và đoàn kết hơn 4
triệu đảng viên bây giờ. Điều này cũng chứng minh một chân lý là chỉ có lý
tưởng (dù là hoang tưởng như chủ nghĩa cộng sản) mới gắn kết được các thành
viên trong một chính đảng lại với nhau, chứ không phải là tiền bạc. Các đảng
viên cộng sản ngày xưa hầu như là không có gì và họ tự nguyện hy sinh, còn đảng
viên bây giờ gắn kết và bảo vệ đảng bằng cái… sổ hưu, như lời ông Đại tá-Phó
giáo sư-Tiến sĩ-Nhà giáo ưu tú Trần Đăng Thanh từng phát biểu, và đó là sự
thật.
Việc thành công của Việt Minh năm 1945 cũng
minh chứng cho một điều rất quan trọng khác về chính đảng, đó là một đảng chính
trị chỉ có thể hình thành trong khó khăn, khi chưa thành công. Không một đảng
chính trị nào có thể thành lập và duy trì được sau khi đã… cầm quyền. Đảng Cần lao
của ông Ngô Đình Diệm hay đảng Dân chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu ở Miền Nam
trước đây là một ví dụ. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất thành
công và cầm quyền tại Việt Nam suốt 68 năm qua, tuy nhiên “tư tưởng chính trị”
của đảng cộng sản vốn là hoang tưởng và khủng bố nên nó đã sai ngay từ đầu,
việc du nhập nó vào Việt Nam đã khiến cho đất nước ta tan hoang và đau khổ suốt
gần một thế kỷ nay. Nếu người Việt chúng ta không thay đổi tư tưởng chính trị
thì không có gì đảm bảo tương lai chúng ta sẽ khá hơn bây giờ.
Một chính đảng phải có một vị lãnh đạo (chứ
không phải là lãnh tụ), người lãnh đạo đó ngoài sự hiểu biết sâu sắc về thế
giới, về con người và hoàn cảnh đất nước phải còn là một người lương thiện và
bao dung. Dù một người có tài giỏi đến đâu mà không lương thiện thì cũng không
thể làm lãnh đạo. Một chính đảng cũng như người lãnh đạo của chính đảng đó sẽ
không có tương lai nếu thiếu sự bao dung và sự hòa giải. Chính trị là hướng tới
những điều tốt đẹp cho cả một dân tộc, một đất nước vì vậy sẽ không có chổ cho
những người lãnh đạo thiếu lương thiện và bao dung. Một chính đảng, muốn có sức
sống thì cần có sự kế thừa liên tục. Nhiều chính đảng người Việt ở hải ngoại
như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… đã không có sự kế thừa của lớp trẻ, phần
lớn các thành viên cũ đã lớn tuổi, vì thế thiếu đi sự đổi mới và sự năng động
cần thiết.
3.Người Việt hiểu biết về chính trị ra sao?
Có thể nói ngay mà không sợ sai rằng: Kiến
thức về chính trị, về các hoạt động chính trị, về đảng phái… của người Việt nói
chung và giới trí thức nói riêng rất kém và rất sơ sài. Ví dụ rõ nhất là một
người, chỉ cần có bằng cấp khoa bảng là mặc nhiên xem mình là trí thức và không
chịu đầu tư thời gian để học hỏi về “văn hóa chính trị”. Trong các sự hiểu biết
của con người thì hiểu biết về chính trị là cao nhất và khó nhất. Tiếc thay
người Việt, đặc biệt là tầng lớp trí thức, việc học hỏi để trở thành những “trí
thức chính trị” lại là việc ít quan tâm nhất. Điều đó khiến cho nhiều người, dù
bằng cấp rất cao, rất có uy tín trong cộng đồng và hoàn toàn có thể trở thành
những người lãnh đạo trong tương lai lại có những lời nói và hành động gây thất
vọng cho dân chúng và làm phân tán sự tập trung sức lực cho đại cuộc chung. Ví
dụ một người rất nổi tiếng là tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, ông là người học rộng, có
kiến thức trên nhiều lĩnh vực như văn chương, hội họa… là người dũng cảm, dám
dấn thân cho đất nước, nhưng kiến thức về chính trị của ông, vẫn còn hạn chế
khi ông ra ứng cử chức “bộ trưởng văn hóa”. Một bộ trưởng, thành viên của nội
các là chức vụ được chỉ định bởi người đứng đầu cơ quan hành pháp (có thể là
thủ tướng hay tổng thống, là người chiến thắng trong các cuộc bầu cử). Trên thế
giới chẳng có nước nào mà chức vụ bộ trưởng lại tự ra ứng cử cả, một người chỉ
có thể ứng cử các chức danh như dân biểu quốc hội hay tổng thống.
Rất nhiều trí thức dấn thân cho dân chủ tại
Việt Nam vẫn còn dị ứng với các đảng chính trị, họ cho rằng tham gia chính trị
là có động cơ, mục đích và tham vọng vì vậy họ muốn hoạt động “độc lập” để cho
nó khách quan? Nhưng nếu ai cũng muốn “độc lập” thì ai cho họ cái quyền độc lập
và khách quan đó? Và đường nào khi đã lên tiếng cho dân chủ thì dù có đứng
trong hay ngoài một tổ chức chính trị thì động cơ của họ cũng đã rất rõ ràng:
Họ muốn thay đổi xã hội hiện tại và mong muốn tương lai được tốt đẹp hơn. “Động
cơ” đó cũng đủ để khiến bao nhiêu người vào tù, cho dù họ không hề tham gia vào
một tổ chức chính trị nào.
Cũng có những trí thức Việt Nam cho rằng
cần dựa vào lực lượng tôn giáo, dân oan, công nhân… để làm cách mạng? Đây là
một sự lầm lẫn và ngộ nhận lớn. Các tôn giáo không nên tham gia vào các hoạt
động chính trị, họ cần độc lập với chính quyền, đó cũng là tôn chỉ của các tôn
giáo. Dân oan hay công nhân cũng vậy, họ cần chia sẻ và giúp đỡ chứ họ không thể
là “lực lượng tiên phong hay lãnh đạo”, cái gì gắn kết họ lại với nhau? Lý
tưởng? Tiền bạc? Cả hai thứ, họ đều không có. Hơn nữa, khi nói cần dựa vào các
lực lượng này nọ để làm người dẫn đường thì người nói chứng tỏ mình thiếu chín
chắn và lương thiện, tại sao không tự mình chung tay, góp sức “xây dựng một lực
lượng” đàng hoàng và có tầm vóc, mà lại chỉ muốn dựa vào các lực lượng khác, đã
có sẵn? Cũng có người ngây ngô đặt câu hỏi “tại sao các đảng chính trị dân chủ
đối lập Việt Nam không thống nhất lại với nhau thành một đảng duy nhất?”. Họ
không hiểu được sự khó khăn của việc xây dựng các chính đảng và sự khác biệt tư
tưởng giữa các chính đảng.
Thành lập một đảng chính trị đã rất khó,
duy trì được nó lại càng khó hơn. Việc các tổ chức chính trị vội vã thành lập
và nhanh chóng rơi vào quên lãng tại Việt Nam thời gian qua là một ví dụ. Một
điều rất quan trọng khác nữa là một tổ chức chính trị muốn có uy tín thì cần
phải có thời gian để chứng minh. Tiếc thay thời gian lại không còn nhiều, vì
vậy thay vì thành lập các tổ chức chính trị mới, trí thức Việt Nam nên lựa chọn
một tổ chức chính trị đã có uy tín để tham gia. Nếu có tài thì lo gì không có
đất dụng võ. Thay vì loay hoay tự đóng thuyền vượt biển hãy mạnh dạn bước lên
một chiếc tàu đã đóng sẵn và có đầy đủ thủy thủ đoàn lẫn thuyền trưởng. Trí
thức Việt Nam cũng cần hiểu rõ một điều rằng để thay đổi được một xã hội như
Việt Nam là một công việc rất khó khăn mà một người dù tài giỏi đến mấy cũng
không thể làm được, vì vậy hãy tìm đến với nhau, phải dựa vào nhau, đứng chung
lại với nhau…
4.Đôi lời về Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (THDCĐN).
Bây giờ xin được nói một chút về THDCĐN,
một tổ chức chính trị đã ra đời cách đây 30 năm. Cho đến bây giờ THDCĐN vẫn
chưa có được tầm vóc của một tổ chức đối lập hùng mạnh, sự lan tỏa và ảnh hưởng
của THDCĐN lên đại đa số người dân Việt Nam vẫn còn yếu. Vậy thì chúng tôi đã
làm được gì suốt 30 năm qua? Dù còn rất khiêm tốn nhưng kết quả đang ngày càng
rõ nét. THDCĐN đã làm được một “cuộc cách mạng về tư tưởng” với ba lập trường
chủ đạo “Dân chủ đa nguyên, Bất bạo động, Hòa giải và hòa hợp dân tộc”. Những
lập trường này khi mới ra đời đã gặp phải sự chống đối dữ dội từ “bên thắng
cuộc” lẫn “bên thua cuộc”. Thậm chí, ông Nguyễn Gia Kiểng trong một lần đi diễn
thuyết tại Hà Lan đã bị một nhóm người Việt quá khích đả thương. Ngày nay,
những lập trường trên đã thành sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân, mọi
người đều nhìn nhận nó như là chìa khóa để mở ra cánh cửa tương lai cho dân tộc
Việt Nam. Trong bản dự thảo Hiến Pháp của 72 nhân sĩ, trí thức Việt Nam đã dành
hẳn điều 77 để viết về “Hòa giải dân tộc”.
THDCĐN cũng đã mất gần 30 để xây dựng một
tư tưởng chính trị, làm kim chỉ nam cho các hoạt động của tổ chức, đó là Dự Án
Chính Trị-Thành Công thế kỷ 21. Và THDCĐN cũng đã xây dựng được một đội ngũ cán
bộ nòng cốt, tuy chưa thật sự đông đảo nhưng đó là những người có tinh thần yêu
nước, có văn hóa tổ chức và thông suốt tư tưởng chính trị. Dù số lượng thành
viên chính thức vẫn còn khiêm tốn nhưng thân hữu và bạn bè thì rất nhiều và chúng
tôi hy vọng sẽ tiếp tục đón nhận nhiều thành viên mới, đến từ mọi tầng lớp
trong xã hội, trong thời gian tới. Nhất là sau khi mọi người đã thử qua những
phương cách khác và không thành công như mong muốn. Điều khiến cho THDCĐN vẫn
chưa phát triển mạnh về số lượng thành viên là do chúng tôi tôn trọng sự lựa
chọn và dấn thân của giới trí thức Việt Nam. THDCĐN là một tổ chức chính trị
mở, bao gồm mọi thành phần dân chúng trong xã hội với sự xuất thân khác nhau.
Chúng tôi cho rằng dấn thân chính trị là một lựa chọn khó khăn vì vậy rất cần
sự tự nguyện và tự giác. Trí thức Việt Nam cần phải vượt qua chính mình bằng
cách sáng suốt lựa chọn và tham gia vào một tổ chức chính trị đứng đắn. Bản
thân người viết bài này cũng tự mình tìm hiểu THDCĐN qua việc đọc “Tổ quốc Ăn
năn”, đọc Dự án chính trị rồi viết thư trao đổi với các thành viên của THDCĐN
và cuối cùng là xin gia nhập tổ chức. Từ đó đến nay đã 10 năm nhưng người viết
chưa một lần viết thư mời mọc người này, người kia tham gia vào THDCĐN dù trong
lòng rất muốn và mến mộ rất nhiều người.
Khi nói về THDCĐN thì không thể không nói
đến người lãnh đạo của chúng tôi, ông Nguyễn Gia Kiểng. Ngoài sự uyên bác ông
còn là người lương thiện, độ lượng và bao dung. Bản thân ông cũng như THDCĐN
không ít lần bị công kích, chụp mũ một cách vô lối và hằn học nhưng chúng tôi
đã phản ứng một cách có chừng mực và văn hóa vì ông luôn dặn chúng tôi phải tôn
trọng tuyệt đối sự đa nguyên và nên bao dung với người khác chính kiến, nếu họ
chưa hiểu rồi thời gian sẽ làm họ hiểu, hoặc là người khác sẽ giúp họ hiểu hơn
về chúng tôi… Năm nay ông đã bước sang tuổi 70, là linh hồn của THDCĐN nhưng
ông không hề có tham vọng sẽ làm thủ tướng hay tổng thống Việt Nam trong tương
lai, dù rằng ông hoàn toàn xứng đáng. Trong các cuộc trao đổi với chúng tôi ông
luôn khẳng định như vậy và ông tin rằng Việt Nam không thiếu người tài để lãnh
đạo đất nước. Ông cũng như THDCĐN biết thế nhưng vì tình yêu đất nước và con
người Việt Nam chúng tôi sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm làm người tiên phong và
dẫn đường (lâm thời) trên con đường đấu tranh dân chủ hóa đất nước. Khi Việt
Nam có dân chủ, chúng tôi sẵn sàng cùng với các chính đảng khác tham gia vào
một cuộc bầu cử tự do, dân chủ và công bằng để nhân dân Việt Nam chọn lựa làm
người phục vụ cho nhân dân.
Có lẽ, chúng ta ai cũng thấy bầu không khí
của xã hội Việt Nam ngày nay rất ngột ngạt như trong đêm tối, trước khi bình
minh của sự đổi mới xuất hiện. Một sự thay đổi toàn diện đất nước về hướng dân
chủ là điều dứt khoát phải đến. Thời gian không còn nhiều, trí thức Việt Nam
cần dấn thân một lần cuối cùng để giải phóng cho dân tộc và giải phóng cho cả…
chính mình.
Việt Hoàng
No comments:
Post a Comment