Nguyễn Tường Tâm (luật gia)
Chủ Nhật, 10/02/2013
Đảng và chính quyền đang tung chiến dịch
kêu gọi toàn dân góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992. Nhưng qua nội dung bản
dự thảo và những ý kiến được phát biểu trên cả báo lề phải cũng như lề trái cho
tới nay, người ta thấy việc sửa hiến pháp sắp tới sẽ khó thỏa mãn nguyện vọng
của nhân dân.
Có
ba lý do để các chuyên gia pháp lý nghĩ như vậy:
1- Thời hạn ba tháng góp ý quá ngắn.
2- Đảng và chính quyền chưa tỏ thực tâm sửa
đổi (incentive problem).
3- Cán bộ pháp lý cao cấp của Đảng và chính
quyền chưa cho thấy đầy đủ kiến thức pháp lý để thực hiện cải tổ (knowledge
problem).
* * *
I/ Thời gian góp ý được Đảng qui định đã
được một số trí thức hàng đầu cho biết là không đủ.
Lý do dễ hiểu là trong việc góp ý sửa đổi
Hiến Pháp có hai thành phần dân chúng: Thành phần ngoài giới pháp luật và thành
phần luật gia. Nếu ba tháng có thể tạm đủ cho thành phần dân chúng ngoài giới
luật pháp nêu lên ý kiến của mình thì những ý kiến đó chỉ bộc lộ những mong
muốn, ước vọng, và ý thích. Những mong muốn của quần chúng thật quan trọng để
chính quyền quan tâm khi hình thành bản hiến pháp hợp lòng dân. Nhưng những
mong muốn của người dân thì đa dạng, người muốn thế này, người muốn thế khác.
Làm thế nào để đạt sự đồng thuận, dù luôn luôn chỉ là tương đối? Đây là vấn đề
của những luật gia, những người được học hỏi những lý thuyết triết học, xã hội,
kinh tế và pháp luật đã có trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài
người. Chính những luật gia sẽ thu thập tất cả nguyện vọng của người dân, những
nguyện vọng có thể đối chọi nhau, để tìm kiếm trong kho tàng kiến thức luật
pháp của nhân loại những lý thuyết pháp lý, học thuyết, mẫu mực tổ chức công
quyền đáp ứng nhiều nhất ước vọng của người dân. Chính các luật gia mới là
những người có thể giúp người dân hiểu rõ lý thuyết nào, hình thức chính quyền
nào bảo vệ quyền lợi của họ hữu hiệu nhất, nhiều nhất; những lý thuyết nào, mẫu
mực chính quyền nào làm thiệt hại quyền lợi của họ nhất, để người dân có được
những quyết định xác đáng nhất (informed decisions) [1]. Về mặt kỹ thuật, bài
nghiên cứu sau khi hoàn thành phải đăng trên mọi hình thức truyền thông, chờ
các luật gia khác nghiên cứu góp ý phản hồi. Thêm nữa, để giúp quần chúng thông
hiểu vấn đề, các luật gia không thể viết một bài nghiên cứu toàn bộ Dự thảo sửa
đổi Hiến Pháp, vì sẽ quá dài và phức tạp, mà phải nghiên cứu từng vấn đề mà bản
Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp nêu lên. Như thế sẽ mất rất nhiều thời gian. Thời
gian để các luật gia nghiên cứu, phổ biến ý kiến, thảo luận phải nhiều tháng,
có khi một năm, như nhóm trí thức do cựu bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc
trưởng đoàn vừa đề nghị. Tóm lại, quá trình trao đổi góp ý cho bản Dự thảo sửa
đổi hiến pháp phải dài nhiều hơn là ba tháng. Đây là trở ngại thứ nhất khiến
cho công cuộc sửa đổi hiến pháp sắp tới có tính cách "bất khả thi",
trong ý nghĩa khó đạt hiệu quả đa số nhân dân mong muốn.
II/ Đảng và chính quyền chưa tỏ thực tâm
sửa đổi (incentive problem).
Theo lý thuyết chính trị & kinh tế dĩ
công vi tư (Public choice theory, chữ dịch của tác giả) [2], chính quyền, gồm
những con người, tự bản chất, luôn luôn giống như mọi con người bình thường
khác (rational people), luôn muốn có những đạo luật, những chính sách, những
quyết định có lợi cho mình, đi ngược lại quyền lợi của người dân. Kẻ cầm quyền
sẽ không phục vụ lợi ích của nhân dân nếu không có lý do thúc đẩy họ làm như
thế. Tại những quốc gia dân chủ, các chính trị gia không thể tham nhũng, cho
nên lợi ích của họ là lấy lòng cử tri để được tái cử trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Trong một chế độ mà các người lãnh đạo công quyền không phải do người dân bầu
ra, việc tái đắc cử hay được tiếp tục giữ chức vụ hoàn toàn do đảng quyết định,
người dân không có tiếng nói quyết định vận mạng chính trị của họ, thì họ không
quan tâm tới nguyện vọng của người dân. Vì thế không có lý do gì để tin tưởng
rằng Đảng và chính quyền hiện nay có thực tâm sửa đổi hiến pháp. Điều này được
chứng minh qua cuộc vấn đáp của nhà báo với Đại biểu Quốc hội Ngô Văn Minh
trong bài Ngồi trên trời mà làm chính sách” (http://www.tinnongtrongngay.net/2013/01/ngoi-tren-troi-ma-lam-chinh-sach.html)
Khi được hỏi: "* Ông Vũ Đức Đam, bộ trưởng - chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ, thừa nhận có tình trạng thông tư của bộ, ngành thường được soạn thảo theo
hướng thuận lợi cho sự quản lý của mình,... ông nghĩ sao?" Đại biểu
Minh trả lời: "Tôi đồng tình với quan điểm của ông Đam."
Sự thiếu tin tưởng rằng Đảng và chính quyền
có thực tâm sửa đổi hiến pháp cũng dựa trên mấy hành động thực tế của Đảng như
thủ tục thu thập ý kiến của người dân dưới đây:
Đảng để thời gian thu thập ý kiến của người
dân quá ngắn khiến người dân nghĩ rằng việc thu thập ý kiến của nhân dân chỉ có
tính cách hình thức.
Thủ tục góp ý có tính cách hành chánh quan
liêu: chỉ ghi nhận những ý kiến người dân mang tới văn phòng của Ủy Ban, hay
gửi vào trang mạng của Ủy Ban Soạn thảo Dự án hoặc được đăng trên các báo nhà
nước. Các ý kiến phát biểu trên các trang mạng hay các blog của người dân không
được Đảng chấp nhận. Nếu thực tâm muốn thu thập toàn bộ ý kiến của người dân
thì bất cứ ý kiến được phát biểu dưới hình thức nào cũng cần được thu thập để
đánh giá.
Việc thu thập ý kiến có tính cách đe dọa
người dân có ý kiến không hợp ý Đảng. Trong lịch sử cầm quyền của Đảng, đây là
lần đầu tiên Đảng kêu gọi người dân đóng góp ý kiến vào việc sửa đổi Hiến Pháp.
Cho tới mới đây những ý kiến kêu gọi Đảng sửa đổi Hiến pháp chẳng những không
được đáp ứng mà những người nêu ý kiến còn bị Đảng bỏ tù như Tiến sĩ Nguyễn
Mạnh Tường (thập niên 1950), Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ mới đây, và không ít người
bất đồng chính kiến khác nữa, khiến người dân sợ không dám đụng chạm tới đề tài
cấm kỵ này. Với tâm trạng lo sợ đó mà nay Đảng kêu gọi người dân đóng góp ý
kiến phải viết tên, địa chỉ và số điện thoại thì chỉ có những người đóng góp
những ý kiến vụn vặt hay thuận theo bản dự thảo của Ủy Ban soạn ra mới dám lên
tiếng, chứ những người có những ý kiến liên quan tới những điều quan trọng trái
ngược với bản Dự thảo của Ủy ban Soạn Thảo thì chắc chắn không dám. Đây là trở
ngại khá lớn để lần sửa đổi này có khả năng đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân
dân.
Một sự kiện nữa khiến người dân chưa tin
đảng thực tâm muốn sửa đổi Hiến pháp lần này là phát biểu mới đây nhất của ông
Nguyễn Văn Phúc - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Phó Trưởng Ban
Biên Tập dự thảo sửa đổi Hiến Pháp năm 1992 cho biết Đảng sẽ soạn Luật Đất đai
trước rồi sau đó mới soạn Hiến Pháp sao cho Hiến pháp phù hợp với Luật Đất đai.
Điều này là trái với nguyên tắc thông thường soạn thảo và sửa đổi Hiến Pháp.
Trên thế giới ngoài khối Xã Hội Chủ Nghĩa và Cộng Sản, không nước nào soạn thảo
hay sửa đổi Hiến Pháp một cách thiếu hiến tính như vậy. (Nguyễn Tường Tâm
- Sửa Hiến Pháp - Bịp có bằng chứng)
Và quan trọng hơn hết, chính Ô. Nguyễn Minh
Triết, Chủ tịch nước đã mạnh dạn tuyên bố "Bỏ điều 4 Hiến Pháp là tự
sát." Quan điểm của Đảng đã định trước như thế thì việc sửa đổi hiến pháp
trong tương lai nếu có cũng chỉ là bề mặt như nhiều người đã nhận định.
III/ Cán bộ pháp lý của Đảng và chính quyền
chưa cho thấy đầy đủ kiến thức pháp lý để thực hiện cải tổ (knowledge problem).
Sự thiếu trình độ, không có kinh nghiệm
nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo tư pháp của Đảng và Nhà nước trước tiên thể hiện
ở việc qui định thời gian góp ý quá ngắn. Như đã trình bày ở mục I (thời gian
góp ý quá ngắn). Nếu có kinh nghiệm nghiên cứu một đề án lớn, người ta sẽ không
qui định thời gian góp ý ngắn như vậy.
Nhiều báo cáo chính thức của cán bộ đầu
ngành tư pháp Việt Nam xác nhận trên 50% thẩm phán, Kiểm sát viên viện kiểm sát
thiếu trình độ chuyên môn (báo cáo chính thức quá nhiều nên xét thấy không cần
trích dẫn ra đây.) Ngay cả Chánh án tòa án Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát
tối cao cũng bị cán bộ tư pháp trong ngành tố cáo là bằng "rỏm", tức
là bằng thật nhưng không thật vì không biết hai vị đó học lúc nào, tại trường
đại học nào (việc tố cáo đã gây rầm rộ một thời nên xét thấy cũng không cần
trích dẫn).
Sự thiếu khả năng pháp lý ở cấp cán bộ cao
nhất nước đã đưa tới việc soạn thảo những đạo luật phải cần từ 200 tới 400
thông tư, nghị định hướng dẫn như lời Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng phát biểu
trong buổi phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh
Quang trước Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội được đăng trên báo Lao Động ngày
17-122-2012 (http://laodong.com.vn/Chinh-tri/UB-Thuong-vu-QH-thao-luan-ve-luat-dat-dai-sua-doi-Phai-tiep-tuc-tiep-thu-hoan-thien/95771.bld)
Nếu cán bộ lãnh đạo tư pháp có trình độ đúng mức thì không thể có những đạo
luật như vậy.
Mới đây nhất, theo báo Pháp Luật, Bộ Công
Thương vừa công bố một nghị định hướng dẫn Luật Điện Lực (sửa đổi) theo đó bên
mua điện sử dụng lượng điện thấp hơn 50% công suất được đăng ký trong hợp đồng
mua bán điện cũng bị xem là vi phạm và sẽ bị phạt. Chỉ có ở Việt Nam mới có
những cán bộ tư pháp cấp cao mà thiếu trình độ đề ra luật "điên" như
vậy. (http://phapluattp.vn/20130204124358340p1014c1068/d249ng-dien-237t-cung-bi-phat.htm)
Những dẫn chứng về sự thiếu trình độ tư
pháp của cán bộ tư pháp mọi cấp của Việt Nam thì tràn lan hàng ngày trên báo
chí của chính quyền.
Chưa nói tới trình độ tư pháp, riêng về
trình độ văn hóa phổ thông, cán bộ lãnh đạo ngành tư pháp Việt Nam cho thấy chỉ
ở trình độ học hết cấp 1 theo tiêu chuẩn giáo dục của mọi quốc gia trên thế
giới. Sau khi học hết cấp 1 thì người học sinh không thể viết một bản văn có
những từ vô nghĩa, hay tác giả không hiểu nghĩa. Vậy mà trong bản Dự thảo sửa
đổi Hiến Pháp 1992 hiện nay có những từ vô nghĩa, không ai biết nghĩa là gì,
ngay cả giới lãnh đạo khi được hỏi cũng không giải thích được, đó là mấy từ
"Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; "dân chủ
tập trung"; "Pháp quyền xã hội chủ nghĩa".
Thêm nữa, khi học hết cấp 2, học sinh đã
biết viết một bài văn luận đề trong đó không được có những ý tưởng mâu thuẫn
nhau (thiếu logic). Vậy mà trong bản Dự thảo Sửa đổi Hiến Pháp hiện nay có
những điều khoản mâu thuẫn với điều 4 của Dự thảo (đã được nhiều người nêu
lên).
Ngoài ra, trong bản Dự thảo Sửa đổi Hiến
Pháp hiện nay cũng còn nhiều điều cho thấy cán bộ lãnh đạo cũng như các chuyên
viên soạn thảo thiếu trình độ pháp lý cần thiết, sẽ được trình bày trong các
bài chuyên đề tiếp theo sau này.
Trình độ yếu kém của cán bộ cao cấp ngành
tư pháp cũng được thể hiện qua cuộc vấn đáp của nhà báo với Đại biểu Quốc hội
Ngô Văn Minh trong bài "Ngồi trên trời mà làm chính sách” nêu trên. Khi
được hỏi: "Nguyên nhân của những văn bản bị dư luận phản ứng, thậm chí
có văn bản chưa thực hiện đã phải sửa, theo ông là từ đâu, do quan liêu hay do
trình độ của những người soạn thảo văn bản đó?" Đại biểu Quốc Hội Ngô
Văn Minh đã trả lời: "Tôi nghĩ là do cả hai, cả trình độ năng lực và sự
quan liêu, kể cả người thẩm định các văn bản đó cũng quan liêu."
Tóm lại, trong ba yếu tố khiến cho công
cuộc sửa đổi hiến pháp sắp tới khó đáp ứng được nguyện vọng của người dân thì
hai yếu tố quan trọng nhất là Đảng và Chính quyền thiếu thực tâm và thiếu kiến
thức luật pháp.
_______________
Ghi chú:
- Tác giả sẽ có nhiều bài tiếp theo dựa
trên lập luận pháp lý để phân tích những điều khoản thiếu hiến tính trong Bản
Dự thảo Sửa đổi Hiến Pháp 1992 đang được nhiều người quan tâm mà chưa được luật
gia nào phân tích.
[1] Một quyết định xác đáng (an informed
decision) là một quyết định sau khi người quyết định được biết tất cả những
thông tin quan trọng liên quan tới trọng tâm của quyết định (An informed
decision is a decision made after learning relevant facts (informing oneself)
about the focus of the decision.)
[2] Lý thuyết "dĩ công vi tư"
(Public choice theory) cho rằng mọi người chủ yếu bị hướng dẫn bởi quyền lợi
của họ, và quan trọng hơn nữa, lý thuyết này cho rằng động cơ của con người
trong tiến trình chính trị (chính trị gia hay người dân bầu cử-chú thích của
tác giả) không khác với động cơ của con người khi vào nhà hàng ăn hay mua xe
hơi. Sau cùng, tất cả họ cũng là con người như nhau. Như thế, cử tri "bỏ
phiếu cho túi tiền của họ", ủng hộ những ứng cử viên nào và các dự án luật
nào mà họ nghĩ sẽ khiến quyền lợi của họ được nhiều hơn; các viên chức nhà nước
thì cố gắng để thăng tiến trong nghề nghiệp.
(But public choice, like the economic model
of rational behavior on which it rests, assumes that people are guided chiefly
by their own self-interests and, more important, that the motivations of people
in the political process are no different from those of people in the steak,
HOUSING, or car market. They are the same human beings, after all. As such,
voters “vote their pocketbooks,” supporting candidates and ballot propositions
they think will make them personally better off; bureaucrats strive to advance
their own careers.)
No comments:
Post a Comment