31/01/2013
Thế là người hát rong nổi tiếng nhất của Việt Nam đã ra
đi về cõi vĩnh hằng sau 93 năm rong ruổi cùng vận nước nổi trôi. Thân xác của
ông đã trở về lòng đất mẹ, nhưng những lời ca của ông sẽ vẫn còn ngân vang. Và,
như thế ông vẫn còn sống với đời, với chúng ta.
Cũng như nhiều triệu người Việt Nam khác, tôi sinh ra và
lớn lên trong thế giới âm nhạc của Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành
An, Từ Công Phụng … Nhưng trong những nhạc sĩ tài ba đó chỉ một mình Phạm Duy
là tôi xem như một bậc kỳ tài. Tôi biết có người sẽ không hài lòng về nhận xét
của tôi về Nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng thiết tưởng tôi có quan điểm và chính kiến
riêng, nên không ngần ngại nói lên ý kiến của mình. Cũng như sẽ không có một
Trịnh Công Sơn thứ hai, chúng ta cũng sẽ không có một Phạm Duy thứ hai. Sự ra
đi của ông để lại những nuối tiếc của hàng triệu người cũng là điều dễ hiểu.
Trong những bài viết gần đây về Phạm Duy, tôi thích nhất
bài của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn. Trong đó ông tóm lược một câu ngắn gọn: “Âm
nhạc của Phạm Duy làm cho người Việt gần nhau hơn”. Quả đúng như thế. Nhưng
tại sao âm nhạc Phạm Duy có cái hiệu ứng như thế? Tôi nghĩ tại vì mỗi chúng ta
đều có thể tìm sự đồng cảm trong những lời ca của Phạm Duy. Mỗi chúng ta, từ bé
đến già, từ anh nông dân đến chị bác sĩ, từ người bên lề trái đến kẻ lề phải
đều có thể tìm thấy những ý tưởng mà Phạm Duy đã thay mặt chúng ta nói lên qua
những bài nhạc bất hủ của ông. Chỉ cần một câu tôi yêu tiếng nước tôi từ khi
mới ra đời cũng đủ để những người Việt có thể ngồi gần nhau hơn.
Âm nhạc của Phạm Duy dễ cảm hoá người nghe vì ông là một
nghệ sĩ sống thật với mình. Cái sống thật đó có thể tóm gọn trong một chữ: đó
là chữ đa. Đa tài. Đa tình. Đa đoan.
Phạm Duy là một con người đa tài. Điều này thì chắc chắn
ai cũng ghi nhận. Ngay cả những người không ưa ông cũng công nhận ông là một
nhạc sĩ có tài. Ông không chỉ nổi tiếng là tác giả của hơn 1000 ca khúc với
nhiều chủ đề, mà còn là một nhà khảo cứu âm nhạc và có lúc là một ca sĩ. Không
chỉ là một nghệ sĩ sáng tác, ông còn nổi tiếng là một người phóng tác. Tài phổ
thơ thành nhạc của ông có lẽ vô song, xứng đáng với danh hiệu phù thủy âm
thanh. Nói đúng ra, ông khởi đầu sự nghiệp bằng một bài phóng tác. Bài nhạc
đầu tiên của ông là bài Cô hái mơ do ông phổ thành nhạc từ thơ của
Nguyễn Bính. Ông đã phổ nhạc từ hơn 300 bài thơ. Có những bài thơ mới đọc qua
có vẻ bình thường, nhưng qua tay Phạm Duy thì trở thành những bài ca nổi tiếng.
Một nhà thơ có thể nói là “vô danh” (xuất thân từ cô bán vải trong Chợ Bến
Thành) nhưng khi được ông phổ bài thơ Thuyền viễn xứ thì ai cũng biết
đến Huyền Chi. Có thể nói không ngoa rằng ông là người “chấp cánh” cho những
bài thơ và do đó những sáng tác của ông đã góp phần làm giàu thêm tiếng Việt.
Phạm Duy là một người đa tình. Ông cũng chẳng dấu diếm gì
những “bê bối” tình cảm trong cuộc đời của ông. Trước 1975, trong những năm ở
đỉnh cao sự nghiệp, ông là người có những cuộc tình sôi nổi. Báo chí Sài Gòn
thuở đó dấy lên một phong trào đi tìm những cuộc tình của Phạm Duy mà ông không
cách gì dập tắt được. Hồi ký của nhà thơ Hoàng Cầm cũng có những đoạn thuật lại
chuyện Phạm Duy đa tình trong thời kháng chiến. Nhưng Phạm Duy không bao giờ
tiết lộ danh tánh những người tình của ông, và ông vẫn trung thành với ca sĩ
Thái Hằng cho đến cuối đời. Tình cảm là một chút xúc tác cho sáng tác. Công
bằng mà nói những cuộc tình đó đã giúp cho ông sáng tác những bài tình ca rất
hay. Có lần ông thú nhận rằng ông từng yêu tha thiết một nữ thi sĩ, người đã
chia sẻ với ông hàng trăm bài thơ, một số sau này là những bài tình ca bất hủ. Trong
những bài đó phải kể đến Chỉ chừng đó thôi, Ngày ấy chúng mình, Ngàn trùng
xa cách.
Phạm Duy là một con người đa đoan. Ông có một cuộc đời
sóng gió. Là người sống qua những thăng trầm của lịch sử, Phạm Duy là một chứng
nhân của vận nước nổi trôi. Từ bỏ kháng chiến, ông “dinh tê”, rồi đi tuốt vào
Nam. Miền Nam đã dung dưỡng ông và nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc khác. Đến năm
1975, ông lại một lần nữa tỵ nạn ở tận bên Mỹ. Phải 30 năm sau ông mới quay về
đất mẹ và vẫn hăng say sáng tác cho đến ngày từ giã cõi trần. Trong quãng thời
gian dài trôi nổi đó ông đã để lại cho đời nhiều ca khúc đánh dấu những giai
đoạn bi luỵ của lịch sử nước nhà.
Một người đa đoan thì có nhiều người thương kẻ ghét là
chuyện bình thường. Trước năm 1975 một vài người trong giới văn nghệ gọi ông là
một tài năng hư hỏng. Một thi sĩ khá nổi tiếng từng phê phán Phạm Duy là
một kẻ có tài vô hạnh. Mới đây, một vài quan chức văn nghệ CS cho rằng
Phạm Duy “có tội với đất nước”. Thiết tưởng còn quá sớm để nhân danh một chủ
thuyết ngoại lai đi phán xét một nghệ sĩ. Tôi nghĩ rằng những kẻ đang lớn tiếng
phê phán Phạm Duy có tội mới chính là những kẻ thật sự có tội với dân tộc và
đất nước vì chính họ đã góp phần huỷ hoại văn hoá dân tộc và làm cho đất nước
nghèo hèn. Tất cả những người vừa kể có cái đặc điểm chung: họ là những kẻ sống
bám vào thành kiến. Vì sống bám vào thành kiến, nên họ không đủ lý trí để phân
biệt giữa cá nhân tác giả và tác phẩm của tác giả. Picasso có cuộc sống “lăng
nhăng” thì cũng không ảnh hưởng gì đến giá trị tác phẩm của ông. Việc Phạm Duy
dinh tê hay tỵ nạn không phải là cái tội. Không thể và rất hèn khi phải nhân
danh thứ “đạo đức cách mạng” ngoại lai để đi phán xét nhân cách và sự nghiệp
của một người nghệ sĩ dân tộc. Một trăm năm sau người ta vẫn còn ca nhạc của
Phạm Duy nhưng thử hỏi mấy ai còn nhớ đến những bài nhạc gọi là “cách mạng”
kia?
Tính đa đoan của Phạm Duy còn thể hiện qua 3 con người
trong ông. Con người tình cảm. Con người thời cuộc. Con người tâm linh. Con
người tình cảm của Phạm Duy sáng tác ra những ca khúc để đời như Chỉ chừng
đó thôi, Bao giờ biết tương tư, Nghìn trùng xa cách. Có thể kể Tình ca,
Quê nghèo … nằm trong nhóm “tình cảm” – tình yêu quê hương và dân tộc. Con
người thời cuộc của Phạm Duy là tác giả của những ca khúc bi tráng như Chiến
sĩ vô danh, Bà mẹ Gio Linh, Ngày trở về, Kiếp nào có yêu nhau, Kỷ vật cho em và
sau này là Ngục ca. Con người tâm linh của Phạm Duy đã cho ra đời những
tác phẩm sẽ còn đi cùng năm tháng như Đạo ca, Tâm ca và Hoan ca, hay
thậm chí Trường ca Hàn Mặc Tử.
Tuy nhiên, trên hết ông chỉ nhận mình như là một người
hát rong. Ông từng nói rằng “Tôi vẫn tự nhận tôi là một người hát rong.
Thế thì nếu quí vị vui thì tôi là con chuồn chuồn tôi đến đậu; nếu quí vị làm
tôi buồn thì tôi con chuồn chườn lại bay đi!” Hình ảnh ông mặc bộ áo bà ba,
đội nón cối, với cây đàn đúng là hình ảnh của một người hát rong, nhưng là một
người hát rong vĩ đại nhất của Việt Nam. Có thể thêm rằng đó là người hát rong
đa tài, đa tình và đa đoan. Nay thì người hát rong đó đã đi xa, nhưng những bài
hát của ông vẫn còn ở lại với chúng ta.
No comments:
Post a Comment