Ngô Nhân Dụng
Tuesday,
February 12, 2013 6:11:43 PM
Trên báo Tia Sáng, ông Giáp Văn Dương mới viết một bài rất đáng
đọc, ông đặt câu hỏi: Tại sao ở nước ta mọi người không tin nhau. Ông kể chuyện
có lúc đã sống ở một nước ngoài 12 năm, thấy người ta bao giờ cũng tin nhau.
Ông
kể, “Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. (Hợp đồng bảo hiểm viết rằng),
nếu mất xe thì sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: “Nếu chúng tôi bán xe rồi báo
bị mất thì sao?” Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên, một lúc lâu mới nghĩ ra được
câu trả lời: “Tôi tin các anh không làm thế.” Giáp Văn Dương kết luận: Nước họ
giàu mạnh vì họ tin ở con người.
Ngược
lại, khi trở về sống ở Việt Nam, ông thấy người ta luôn luôn nghi ngờ nhau
trước, không ai tin ai cả. Lãnh hành lý ở phi trường bị hỏi giấy tờ, “Tên tôi
đây. Ðịa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao
phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?”
Vào
siêu thị thì lúc ra trả tiền phải đi qua hai chặng, trả tiền rồi, đi hai thước
lại có nhân viên kiểm soát hóa đơn, thấy con dấu đỏ “đã thanh toán” mới được đi
qua. Ông Dương hỏi: “Vì sao người Việt không tin nhau?”
Mình
không cần nhắc đến tên Việt Nam trong câu hỏi này. Ở nhiều nước khác người ta
cũng không ai tin ai cả. Nên đặt câu hỏi là: “Trong những xã hội như thế nào
thì người ta dễ tin nhau? Còn những xã hội người ta không tin nhau thì nó sống
thế nào?”
Mình
không nên nghĩ oan cho giống dân Việt. Có lần tôi kể chuyện những thành phố
người ta bỏ xe đạp ngoài đường qua đêm, không khóa; như ở Dubuque, Iowa; hay ở
Helsinki, Phần Lan (trước khi di dân Ðông Âu qua). Họ không lo mất xe, vì tin
là mọi người chung quanh đều lương thiện. Nhiều độc giả đã viết thư nhắc nhở
rằng xưa kia ở nước ta cũng vậy. Một vị cho biết hồi 1950 ở Sài Gòn ông đã sống
như thế. Ðêm không khóa cửa nhà, xe đạp dựng trước nhà cũng không khóa. Một vị
độc giả khác kể chuyện năm 1959 ông dựng cái xe đạp ngoài bờ sông Sài Gòn đứng
hóng mát; sau đó có một người rủ lên xe hơi đi uống bia. Ông đi tới 11 giờ
khuya, trở lại Bến Bạch Ðằng thấy cái xe không khóa vẫn dựng đó không mất. Bác
Sĩ Nguyễn Tư Mô kể hồi 1955 ông đi trong một phái đoàn y tế xuống Châu Ðốc chẩn
bệnh phát thuốc; lúc vào chợ ăn trưa thì một người trong đoàn bỏ quên cặp kính
mát. Tới buổi chiều, một nhân viên xã mang cặp kính mát đến hỏi có ai đánh rớt
không? Có người lượm được, đem đến trả phái đoàn, vì biết chỉ dân ở Sài Gòn mới
mua được kính mát loại sang như vậy.
Người
Việt Nam vốn đã tin nhau chứ chẳng phải không. Vì ông bà chúng ta vẫn dạy dỗ
con cháu sống theo đạo lý, và chính họ sống làm gương. Trong xã hội nào mọi
người cũng sống với những hợp đồng ngầm hiểu, dài hạn, hết đời này sang đời
khác. Các xã hội Á Ðông theo truyền thống Nho Giáo đều có những “hợp đồng hiểu
ngầm” như vậy. Ra đường gặp ai là có thể tin đến 99% rằng người đó cũng được
cha mẹ dạy các quy tắc Lễ Nghĩa Liêm Sỉ giống như mình. Ngay cả sau khi nước ta
bị Pháp đô hộ, bản Hợp Ðồng Tín Nghĩa vẫn được giữ gìn. Cách sống của Phan Châu
Trinh cũng không khác lối cư xử của Nguyễn Ðình Chiểu hay Hoàng Diệu. Tư cách
đó vẫn truyền qua đến Trần Trọng Kim, Khái Hưng, Nguyễn An Ninh, hay Phan Văn
Hùm. Nền tảng đạo lý đó chỉ bị phá vỡ từ
khi có một chính quyền chủ tâm xóa bỏ hết nền văn hóa cũ, thay thế bằng “văn
hóa vô sản.”
Tại
sao các nước Á Ðông khác, ngoài Việt Nam và Trung Quốc, vẫn giữ được những bản
hợp đồng Tín Nghĩa suốt đời này sang đời khác trong hai ngàn năm?
Phân
tích theo lối kinh tế học, thì lý do chính là: Tín Nghĩa là một cách sống có
lợi về lâu về dài. Không ai muốn làm sai bản hợp đồng tín nghĩa vì nếu nó bị
xóa bỏ, chính mình sẽ bị thiệt thòi. Nói rõ hơn: Cuộc sống của mỗi người sẽ
“tốn kém” hơn! Mức tốn kém tăng lên từ một khoản chi tiêu mà các nhà kinh tế
gọi là “phí tổn giao dịch” (transaction costs). Hãy lấy những thí dụ mà ông
Giáp Văn Dương nêu ra. Một người vào siêu thị mua hàng, trả tiền, được mang
thức ăn về nhà. Trong “giao dịch” kinh tế này, siêu thị cũng phải trả tiền khi
mua hàng, khi thuê mướn cửa hàng, thuê nhân viên, vân vân. Người mua trả một số
tiền lớn bằng số chi phí của siêu thị, cộng với tiền lời mà nếu không có thì
không ai mở siêu thị.
Nhưng
trong một xã hội mà người ta không tin nhau thì siêu thị phải lo đặt hệ thống
báo động, phải thuê thêm người canh gác, thêm người kiểm soát lần thứ hai bên
ngoài quầy trả tiền. Tất cả những chi phí mới đó, tất nhiên, chủ nhân họ tính
ngay trong giá bán. Ðó là một thứ phí tổn giao dịch phụ trội; mà nếu trong xã
hội mọi người tin nhau thì không cần. Nhìn rộng ra, trong một xã hội mà người
ta không tin nhau thì phí tổn giao dịch sẽ tăng vọt trên khắp mọi mặt. Cả xã
hội phải chịu. Thử nhìn vào số lượng công an, cảnh sát ở nước ta. Tại sao một
nước cần nhiều công an như vậy? Vì người ta nghi ngờ nhau. Chính quyền nghi ngờ
dân. Nếu mọi người tin nhau thì mấy trăm ngàn công an cảnh sát có thể giải ngũ.
Những người đó có thể đi làm những việc hữu ích hơn về kinh tế, như làm kỹ sư,
đi kinh doanh, làm ca sĩ, hay trồng cây ăn trái bán. Bởi vì trong nước vẫn cần
rất nhiều kỹ sư, nhiều nhà kinh doanh, nhiều nhà nông có tài. Lực lượng công an
thu hút mất bao nhiêu người ưu tú, đó là một thiệt hại lớn cho cả nền kinh tế
quốc dân.
Làm
cách nào để xã hội cùng theo những quy tắc sống có Tín Nghĩa? Làm cách nào để
mọi người nhìn thấy nhau là hãy tin cậy trước khi nghi ngờ, nghe ai nói gì thì
trước hết hãy tin đó là lời nói thật? Có thể thiết lập lại bản hợp đồng xã hội
lấy Tín Nghĩa làm tiêu chuẩn hay không?
Có
lẽ chúng ta sẽ tránh không lên giọng hô hào phục hồi môn đạo đức trong trường
học, dù đó là một việc chắc chắn phải làm. Nên tìm ra những giải pháp thực tế.
Mà khi nói đến chuyện thực tế thì có thể tính toán theo lối kinh tế học. Theo
lối nhìn kinh tế học thì muốn người khác tin mình tốt nhất là làm sao cho người
ta biết nếu mình không làm đúng lời hứa hẹn, thì chính mình sẽ bị thiệt hại rất
lớn. Mình có hai đường: Giữ lời hứa có thể bị thiệt, nhưng cũng có thể không bị
thiệt; ngược lại, nếu sai lời thì sẽ bị thiệt hại rất nhiều, với xác suất 100%!
Nếu
mọi người trong một xã hội đều biết như vậy thì hầu hết sẽ cố giữ Tín Nghĩa, xã
hội sẽ thay đổi. Quy tắc này vẫn được sử dụng trong đời sống kinh tế: Khi chúng
ta đi vay nợ, ngân hàng yêu cầu phải có vật cầm thế “làm tin,” ghi rõ trong hợp
đồng. Nếu mình không trả nợ, sẽ mất mát hơn gấp bội!
Khả
năng có thể ký hợp đồng mà bản hợp đồng có hiệu lực thi hành, đó là một nền
tảng tạo ra lòng tin tưởng lẫn nhau. Trong các xã hội hoang dã, việc thi hành
hợp đồng là do mỗi người tự làm lấy. Họ dùng vũ lực để thi hành các bản hợp
đồng. Theo lối mafia, ai không làm đúng hợp đồng thì cho một lưỡi đao, hay một
phát súng; vì Mafia không thể ký những hợp đồng hứa hẹn cùng đi ăn cướp hoặc
giết người, ai làm sai sẽ bị kiện!
Còn
trong xã hội văn minh thì niềm tin giữa mọi người dựa trên hệ thống pháp luật.
Muốn người ta tin thì cứ làm sao để người ta thấy là họ có thể kiện mình ra
tòa, nếu mình làm sai. Như Thomas Schelling diễn giải: Một người dễ được tin
tưởng khi hắn có thể bị thưa kiện! Một người có thể bị kiện ra tòa (nếu làm sai
lời) thì dễ được người khác tin tưởng hơn. Nếu tất cả đều sống theo quy tắc đó
thì chúng ta có thể tạo nên niềm tin cho cả nước.
Giữ
cho guồng máy nhà nước trong sạch là bước đầu tiên để tái tạo niềm tin. Những
người đi hối lộ và ăn hối lộ đều “xé bản hợp đồng” mà mọi người đã thỏa thuận
với nhau. Không những họ làm người dân đút lót mất tiền, mà họ còn phá nát đạo
lý xã hội. Cũng giống như khi có người lái xe ngoài đường mà bất chấp luật lệ
vậy. Nếu nhiều người cứ ngang nhiên lái xe như thế mãi, thì cả thành phố hay cả
nước sẽ không còn luật lái xe. Bản hợp đồng bị xé rồi, mạnh ai nấy sống. Nạn tham
nhũng là thứ làm tiêu hao đạo lý cả xã hội, chưa kể nó làm cho kinh tế không
tiến được đúng tiềm năng.
Trước
khi xé bản hợp đồng với xã hội để ăn hối lộ mà biết trước mình có thể bị thiệt
hại rất nặng nếu bị bắt, thì thế nào người ta cũng ngần ngại không đòi đút lót
nữa. Xác suất bị bắt càng cao thì càng bớt tham nhũng. Án trừng phạt càng nặng,
thì càng bớt. Nếu một hệ thống chính trị cứ để cho xác suất bị bắt thấp, mà
việc trừng phạt cũng nhẹ, thì sẽ nuôi đầy tham nhũng, hối lộ.
Phải
làm sao cho xác suất tội tham nhũng bị tố giác càng cao càng tốt, đó là một
cách giảm bớt tham nhũng và tạo niềm tin trong xã hội. Muốn vậy thì ngoài guồng
máy tư pháp công minh chính trực cần phải có nhiều “bộ máy tư nhân” tình nguyện
tham dự việc tố giác tội tham nhũng. Số hội đoàn, trong xã hội công dân càng
phát triển thì càng nhiều người tự nguyện làm công việc đó. Nhiều người còn sẵn
sàng làm công việc đó, vì có lợi cho họ. Ðó là các nhà báo, khi họ được tự do.
Nhà báo nào điều tra ra những vụ tham nhũng và loan tin sẽ được nhiều người
đọc, nhiều người kính trọng. Chính họ sẽ tự nguyện đi tìm ra những tin tức đó.
Còn nếu nhà báo đi điều tra rồi lại bị tù thì hết nói!
Khi
bản hợp đồng đạo lý của xã hội bị xé rồi, rất khó tái lập. Phá nó dễ, xây dựng
lại rất khó. Nhưng không phải vì khó mà chúng ta không bắt đầu ngay. Phải thiết
lập một chế độ tự do dân chủ, quyền tư pháp độc lập, xã hội công dân phát
triển, mọi người có quyền tự do hội họp, tự do phát biểu. Cứ như thế, trong một
vài thế hệ, sẽ không ai cần đặt câu hỏi: Tại sao người Việt không tin nhau?
------------------------------------------
Câu
chuyện của niềm tin - Giáp Văn Dương 6/2/2013
No comments:
Post a Comment