Phạm Minh Hoàng
Đăng bởi lúc 1:58 Sáng 19/02/13
VRNs (19.02.2013) – Sài Gòn – Cách đây 45 năm đã xảy ra một biến cố quan trọng trong cuộc
chiến Việt Nam. Đó là cuộc tấn công của quân cộng sản – gồm bộ đội miền Bắc và
quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP) – vào khắp các tỉnh thành của miền
Nam VN. Sau chiến thắng 1975, nhà nước cộng sản hàng năm vẫn cho ăn mửng kỷ
niệm chiến thắng này, cho dù rất ít chi tiết được ghi lại trong sử sách của họ.
Đặc biệt vào cuối năm 2012, đạo diễn Lê Phong Lan có tung
ra một bộ phim tựa đề Tết Mậu Thân 68 và được giới thiệu rình rang trên
các phương tiện truyền thông như là một tài liệu trung thực, không che giấu
một chi tiết nào.
Theo bà Lan thì đã bị “thôi thúc đi tìm câu trả lời từ
phía những người đã từng đứng phía bên kia chiến tuyến. Bà đã sang Mỹ nhiều
lần, lặn lội khắp mọi nơi tìm nhân chứng, tư liệu. Rất nhiều người trong cuộc
mà bà phỏng vấn nay đã ra đi, nhưng may mắn là sự thật lịch sử được ghi lại từ
họ. Bộ phim Mậu Thân 1968 sẽ không tránh né những quan điểm thẳng thắn, những
góc nhìn khác nhau của các nhà nghiên cứu lịch sử, những người trong cuộc về
những điều được và mất của cách mạng Việt Nam trong sự kiện Mậu Thân 1968”.
Đọc những dòng này tôi có cảm tưởng như bà Lan “không
đứng về phe nào” và chỉ muốn đi tìm sự thật về Tết Mậu Thân 68 và đặc biệt về
những gì xảy ra ở Huế. Tuy nhiên khi đọc tiếp bài phỏng vấn bà ta cũng như theo
dõi những đoạn phim thì tôi cực kỳ thất vọng và ngỡ ngàng. Nói một cách nhẹ nhàng, thì
tôi rất hoài nghi về cái gọi là “trung thực” của bà, một sự trung thực mà ngay
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới đây thôi, ngay ngày mồng một Tết Quý Tị 2013
đã phát biểu :“Từ trước đến nay, chúng ta có cái bệnh rất lớn là không dám
nói lên sự thật.”[1]
Tóm tắt sự kiện xảy ra tại Huế
Vào thời khắc giao thừa Xuân Mậu Thân 1968, bất chấp đã
thỏa thuận ngưng bắn 48 tiếng để nhân dân và binh sĩ hai miền ăn Tết cố truyền,
bộ đội Bắc Việt và quân MTGP đã đồng loạt nổ súng và tấn công vào các thành phố
miền Nam. Riêng tại Huế, họ đã giữ được yếu tố bất ngờ khi tràn xuống từ vùng
đồi núi phía Tây thành phố vào đêm 31-01. Chỉ chưa đầy 24 giờ, họ đã kiểm soát
được thành phố. Sáng 01 tháng 2, họ tập họp dân chúng trong vùng bị kiểm soát,
bắt học tập tư tưởng Mác-Lênin rồi cho về để chứng tỏ sự “khoan dung” của phe
thắng trận, khuyến khích dân đi rủ những người còn đang trốn tránh ra trình
diện.
Ngày 14-02-1968, Đài Phát Thanh Hà Nội thông báo sự thành
lập chính quyền địa phương với Lê Văn Hảo làm chủ tịch và hai phó là Đào Thị
Xuân Yến (tên con gái của bà Tuần Chi) và Hoàng Phương Thảo. Ngoài ra còn có
các ông bà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất
Dương Tiềm, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh…
Ngay sau khì Huế bị chiếm, quân đội VNCH và Mỹ đã phản
công, các trận đánh nội thành ác liệt kéo dài nhiều ngày và đến ngày 24/2/68,
quân cộng sản bị đánh bật ra khỏi Huế. Thời gian chiếm đóng của họ kéo dài 25
ngày.
Chỉ 24 tiếng đồng hồ sau, những xác chết đầu tiên đã được
tìm thấy trong sân trường Gia Hội và trong suốt nhiều tháng sau đó, không khí
tang tóc kinh hoàng bao trùm khắp thành phố Huế và ngoại thành. Ngày nào trên
truyền hình cũng chiếu cảnh khóc thương của thân nhân các nạn nhân xấu số, bản
Exodus thê lương trở thành bài nhạc quen thuộc trên làn sóng truyền thanh
truyền hình. Thời ấy người ta kể rằng có những ngôi làng phủ trắng khăn tang,
ai cũng có thân nhân bị giết. Trong 14 năm chiến tranh trước đó và cho đến năm
1975, có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại nghe nhiều tiếng khóc than đến
như thế. Cho mãi đến tháng 12/69 nghĩa là hai năm sau, khoảng 22 hố chôn tập
thể được phát hiện. Hố lớn nhất là các ngôi mộ ở quận Phú Thứ hay Gò Cát, chứa
thi thể của 809 người. Phải mất gần 7 tháng mới khai quật hết, ước lượng tổng
số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7600 người trong đó tính luôn 1946 người mất tích
và 1900 người bị thương tật.
Chính phủ VNCH đã tức khắc tố cáo CSBV và MTGPMN là thủ phạm của cuộc thảm
sát này, vì nó xảy ra trong 25 ngày họ chiếm đóng thành phố Huế. Phía CS dĩ nhiên phủ nhận và lại cái khẳng định (xin trích lời bà Lan) “Cuộc
thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở Huế là do phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát
động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý (…) và
tuyệt nhiên không có một vụ thảm sát nào do quân đội phía ta (phía cộng sản)
gây ra.”
Trong bài này tôi sẽ trình bày những phản biện của tôi
đối với lời vu cáo của bà Lan qua bộ phim Tết Mậu Thân 68.
Tôi sẽ không phỏng vấn các quan chức hoặc cựu quân nhân
VNCH (như bà đã phỏng vấn các quan chức hoặc cựu cán binh cộng sản) vì như thế
mất tính khách quan. Tôi chỉ dùng lý luận và căn cứ vào các tài liệu các phóng
viên chiến trường hoặc một vài nhân vật ngoại quốc có liên quan đến vụ việc.
* * *
Thứ nhất: bà nói đã lặn lội
khắp nơi và phỏng vấn hàng trăm người “của cả hai bên” và mất gần 10 năm
để thu thập tư liệu, phỏng vấn các nhân chứng, những học giả uy tín trong và
ngoài nước để hoàn thành bộ phim tài liệu này nhưng chỉ toàn những nhân vật như
Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ (Hai Nhạ), Phạm Ngọc Thảo, Đặng Trần Đức, v..v…nhưng
những nhân vật trên chắc chắn là không phải là những người “của cả hai bên”.
Nếu thật sự muốn tìm ra sự thật về cuộc thảm sát Mậu Thân, tôi nghĩ đâu cần
phải lội sang tới Mỹ phỏng vấn Stanley Karnow. Hãy đi phỏng vấn từ các nạn nhân
và gia đình, thân nhân vẫn còn sống ở Huế, họ đích thực là những người dân “của
cả hai bên”. Tôi nghĩ không cần phải có một bộ óc cao siêu để nghĩ ra điều
này, mà nếu “đi tìm sự thật” mà không nghĩ tới điều này thì quả thật chỉ
có ở những đầu óc thuộc hàng “đỉnh cao trí tuệ”.
Thứ hai: bà Lan nói đã phỏng
vấn nhiều chính trị gia lẫn quân nhân Mỹ và tất cả “đều nói thật”. Tôi
không rõ họ nói thật theo chiều hướng nào, nhưng chuyện người Mỹ, kể cả những
cựu quân nhân từng tham chiến ở VN cũng không biết nhiều hoặc không nói nhiều
về Tết Mậu Thân 68 không còn là điều lạ. Năm 1968 lửa đạn không chỉ ngụt trời ở
VN nhưng thời điểm này đặc biệt căng thẳng ở Trung Đông với cuộc chiến 6 ngày
giữa Do Thái với Ai Cập và Syrie vừa chấm dứt và còn đang hừng hực đe dọa bùng
phát khi gần 20 nước Ả Rập ký hiệp ước Khartoum (tháng 9/67) khẳng định “một
mất một còn” với Do Thái. Vì thế hơn lúc nào hết, Do Thái đang cần sự trợ
giúp của Mỹ nên họ không muốn người Mỹ phải bận tâm đến tình hình VN là chuyện
đương nhiên, và để làm điều đó, người Do Thái có một vũ khí cực kỳ lợi hại:
truyền thông Mỹ.
Theo James Clifforf trong cuốn “Forgotten Massacre at
Hue” ([2])
viết “việc giới hạn mọi báo cáo về cuộc thảm sát ở Huế là một màn giấu giếm
có tổ chức, việc này cho thấy giới truyền thông đã bị biến thể (…) Tôi nhận
thấy khi tường thuật về vụ Mỹ Lai người ta gia tăng con số thường dân bị giết,
còn vụ thảm sát ở Huế thì ngược lại.”. Chua chát hơn, George Esper (một
phóng viên làm việc tại VN từ năm 65 đến 1975): “Việc ém nhẹm vụ thảm sát ở
Huế là một bài học cho những ai còn tin vào truyền thông đại chúng Mỹ. Tôi rút
ra kinh nghiệm này sau 40 năm theo đuổi nghiệp phóng viên với hai hãng thông
tấn lớn nhất thế giới là UPI và AP”.
Theo tôi, bà Lan đã vin vào sự hèn nhát của truyền thông
cũng như chọn lọc một số sử gia, cựu chiến binh Mỹ để kết luận rằng ngay cả
người Mỹ cũng im lặng hoặc mặc cảm về Tết Mậu Thân 68 nói chung và vụ thảm sát
ở Huế nói riêng. Điều này bà ta dùng để minh chứng cho tính khách quan và công
bằng của bộ phim.
Một khía cạnh khác khá lý thú là tâm lý người Mỹ rất ưa
chú ý đến những xì-căng-đan: họ lưu tâm đến Mỹ Lai nhưng lại dửng dưng trước
Mậu Thân với số nạn nhân cao hơn gấp 30 lần! Bản thân tôi đã từng được nghe bài
phỏng vấn của một đạo diễn Mỹ khá nổi tiếng, ông ta nói làm phim trên các sự
kiện thực, nói về sự anh dũng của lính Mỹ thì bị chê là “chống cộng ấu trĩ”
nhưng chỉ cần xây dựng trên những tình tiết hấp dẫn kiểu vai u thịt bắp thì lời
to. Chính vì thế người Mỹ thích Rambo nói về một anh hùng cô độc với
diễn viên Sylvester Stallone chỉ với một con dao găm mà giết hàng tá cảnh sát;
họ thích Platoon hoặc Heaven and Earth nói về thảm cảnh chiến
tranh hơn là The Longest Day nói về chiến tích của Mỹ vào thế chiến thứ
hai. Mặt khác, trong khi phi công Mỹ bị bắn rơi ở miến Bắc VN thì họ vẫn xem
hình ảnh Joan Fonda nghễm nghệ ngồi trên súng phòng không của là chuyện thường,
trong khi lính Mỹ đang đổ máu ở Irak thì họ vẫn bình thản xem phim của Michael
Moore chỉ trích chiến tranh và chính quyền Mỹ, thậm chí còn trao giải Oscar cho
ông ta. Nước Mỹ là thế ! Mậu Thân với hơn 7000 nạn nhân cũng không ngoại lệ.
Thứ ba: Trước năm 1972, miền
Bắc vẫn phủ nhận đem quân vào Nam, họ nói rằng đó là người dân miền Nam nổi dậy
chống chính quyền, ngay cả khi hàng trăm xe tăng T-54 bị bắn cháy cũng như
đường mòn Hồ Chí Minh còn sờ sờ ra đấy. Đến năm 1973 ở bàn Hiệp định Paris,
chính phủ VNCH tố cáo miền Bắc là thủ phạm vụ thảm sát Mậu Thân 68 cũng như vụ
pháo vào Trường tiểu học Cai Lậy (nay là tình Tiền Giang) thì miền Bắc cũng
chối phăng và nói đó chính phủ miền Nam đã ngụy tạo để đổ trách nhiệm lên đầu
bộ đội miền Bắc và MTGP. Tôi nghĩ bà Lan chỉ cần làm như nhà cầm quyền Bắc Việt
đã làm trước đây 40 năm: Chối phăng những trách nhiệm của quân cộng sản trong
vụ Tết Mậu Thân 68 và đổ vấy cho miền Nam là xong! Và quả thật bà đã nói y như
thế. Có điều không hiểu là nếu vậy tại sao bà lại phải bỏ hơn 10 năm hoặc lặn
lội sang Mỹ đề làm gì cho nhọc công.
Nhân nói về chuyện đổ vấy trách nhiệm tôi nhớ đến vụ thảm sát rừng Katyn
trong đệ nhị thế chiến.
Ngày 13/9/1939, Hồng quân Liên Xô (LX) xâm lăng Ba Lan và
chiếm đóng một phần lãnh thổ nước này và bắt tay vào việc “lập lại trật tự”.
Điều này đồng nghĩa với việc thiết lập hàng loạt hệ thống các trại mang danh “trại
lao động”, “trại tù”, “Gulag”, hay “trại tập trung”, trong thực tế là những
trại tử thần do Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (NKVD) tiền thân của KGB (Cục An ninh
Quốc gia) quản lý. Hàng ngàn thành viên giới trí thức Ba Lan cũng bị bắt giam
vì bị cho là “nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ
nhà máy, luật sư và tu sĩ”. Tổng cộng, có chừng 15 ngàn người – trong số đó
có hai sĩ quan mang quân hàm tướng. Ngày 5-3-1940, theo đề nghị của Beria,
Chính ủy của NKVD, Stalin đã ký một sắc lệnh hành quyết 25.700 “người quốc
gia và phản cách mạng”. Nạn nhân của vụ thảm sát được chôn trong các nấm mồ
tập thể tại Katyn (gần Smolensk), Mednoye (gần Tvar) và các khu rừng ở Pyatykhatky
(ngoại ô Kharkov). Vụ thảm sát và việc xóa bỏ dấu vết các nạn nhân đã được thực
hiện một cách tuyệt mật.
Đến năm 1941, Wehrmacht (quân đội Đức) đẩy lui Hồng quân
và hơn một năm sau người Đức đã tìm ra những hố chôn tập thể rải rác trên 3 địa
điểm nói trên. Trước lời tố cáo của Đức, Liên Xô phủ nhận hoàn toàn trách nhiệm
và quy ngược lại trách nhiệm về phía phát xít Đức. Cần nói thêm ở đây là vì nhu
cầu đồng minh với Liên Xô để chống phát xít, Anh và Mỹ đã cố ý cho “chìm xuồng”
vụ này trong suốt thế chiến và cả nửa thế kỷ sau đó. Phải đợi đến khi chế độ
cộng sản sụp đổ vào thập niên 90 thì tất cả mới được đưa ra ánh sáng với sự hợp
tác của ba đời Tổng thống Nga là Yeltsin, Putin và Medvedev. Tháng 11/2010,
viện Duma (hạ viện Nga) đã thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng tội ác Katyn
được tiến hành theo các chỉ thị của Stalin và các quan chức Liên Xô khác.
Ở đây tôi ghi nhận có những điểm trùng hợp với vụ Tết Mậu Thân 68:
- Cuộc thảm sát xảy ra khi quân LX chiếm đóng và cai quản
Katyn.
- LX đã đổ vấy trách nhiệm cho phát xít Đức là người đã
tái chiếm Katyn.
- Nhiều thế lực nước ngoài đã giấu nhẹm vụ này vì không
có lợi cho họ
- Các cuộc thảm sát cũng bắt đấu bằng lời kêu gọi ra
trình diện, cũng học tập, cải tạo.
- Các nạn nhân được quy vào các tội ngoan cố, có nợ máu…
Thứ tư: bà Lan nói đã lặn
lội khắp nơi và phỏng vấn hàng trăm người “của cả hai bên” nhưng tôi
thấy một nhân vật quan trọng trong vụ Tết Mậu Thân 68 mà bà Lan đã quên (?)
không phỏng vấn là ông Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu bà không làm thì tôi làm. Năm
1981, lúc hào quang chiến thắng đang lên tột đỉnh, Burchett và đoàn làm phim “Việt
Nam một thiên lịch sử truyền hình” tới Huế một cuộc phỏng vấn ông về Tết
Mậu Thân 68. Ông Tường đã khẳng định (giống như chính quyền Hà Nội năm 1973 và
bà vào năm 2012) đó là sự vu cáo của phía miền Nam. Ông ta còn giơ ngón tay lên
khẳng định là quân giải phóng chỉ giết có một người, đó là “tên phó tỉnh
trưởng Huế” vì đó là một “phần tử ác ôn, có nợ máu với nhân dân”.
Theo ông ta, ngoài số thường dân bị chính quyền VNCH sát hại cũng còn có một số
“phần tử ác ôn” do người dân Huế quá phẫn uất nên đã xử tử họ. Trong suốt
cuộc phỏng vấn, thái độ của ông Tường thực sự kiêu ngạo và đầy thách thức.
Đến năm 1997, bảy năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ,
ông Tường (HPNT) có sang Paris và được đài RFI phỏng vấn thì nội dung lẫn thái
độ của ông ta đã đổi khác. Dưới đây là các đoạn trích trong bài phỏng vấn do
biên tập viên Thụy Khuê (TK) thực hiện:
TK: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được,
diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: (…) Điều quan trọng còn lại tôi
xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy
là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà
nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi
dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác
được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi cũng tin rằng đây là một sai lầm có tánh cách cục bộ, từ phía những
người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải là một chánh sách
toàn cục của cách mạng.
TK: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT: Tôi không đủ thẩm quyền để phán
xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của
chính ông Lê Minh, (đại tá quân đội cộng sản) tư
lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn
thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của
tôi. (…) Ông Lê Minh (lúc đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có
thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi
hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công
bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ. [3]
Với những lời trần tình của ông Tường thiết tưởng không
cần phải nói gì thêm về trách nhiệm của “quân nổi dậy” (xin lưu ý cách
dùng chữ). Ông Tường dù đang bệnh hoạn nhưng vẫn còn có thể trả lời, ngoài ra
còn một hai nhân vật khác có liên quan đến vụ thảm sát ở Huế thứ nhất là ông Lê
Văn Hảo, nguyên Giáo Sư thuộc Viện Đại Học Huế và là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân
Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế trong suốt thời gian “quân nổi dậy”
chiếm Huế, hiện ông đang sống bên Pháp. Tại đây, ông Hảo đã khẳng định về sự vô
tội của ông: “Tôi chỉ là một con tin trong thế kẹt, phải nhận một chức vụ để
bảo tồn sự sống còn để mong có ngày về với vợ con thôi. Chứ tôi nói thật, trong
Tết Mậu Thân, vai trò của tôi hoàn toàn thụ động, chỉ ngồi trên núi thôi.
Một nhân vật khác là ông Nguyễn Đắc Xuân nguyên là sinh
viên năm thứ hai Đại Học Sư Phạm Việt-Hán, gần đây ông Xuân cũng vừa ký vào
kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 do giới trí thức khởi xướng. Trong phim tài
liệu, bà Lan nói có phỏng vấn ông Xuân nhưng không biết thực hư thế nào, mong
ông lên tiếng cho rộng đường dư luận về việc này.
Thứ năm: Lời cáo buộc quân
đội VNCH là tác giả của cuộc thảm sát có rất nhiều phi lý. Trước tiên ta nói về
thời gian. Nếu thực là thế thì tội ác ấy được thực hiện vào lúc nào? Trong khi
và sau khi Huế bị (quân CS) chiếm là không thể, vậy thì chỉ có thể là trước (để
có thể đổ lỗi cho phía CS). Nhưng nếu đã biết trước sự tiến công của phía CS
thì quân đội miền Nam sẽ phòng thủ và cuộc tiến công sẽ không xảy ra. Sau nữa
là lý do. Vì sao VNCH phải tàn sát thường dân đang dưới sự kiểm soát của họ? Mà
nếu có sao không thấy một ai lên tiếng? Nên nhớ chỉ một tấm hình của Eddie
Adams trong đó tướng Loan của VNCH bắn một cán binh CS đã làm thay đổi rất
nhiều về cuộc chiến, huống hồ gì ở đây gần 8000 con người! Mặt khác, dưới hai
thể chế đệ nhất và đệ nhị cộng hòa, cho dù các quyền tự do còn hạn chế nhưng
cũng đã có nhiều nhân vật đối lập, có những tờ báo đối lập. Liệu một cuộc thảm
sát như thế có thể bịt miệng được phe đối lập? Cũng chưa hết, trong số các nạn
nhân có ba bác sĩ người Đức và hai linh mục Pháp. Mà trong suốt cuộc chiến, đây
là hai nước có nhiều thiện cảm với phía CS. Nếu VNCH giết họ một cách dã man
thì tổng lãnh sự các nước này ở Sàigòn họ để yên chắc? Và cuối cùng, nếu thực
sự chính quyền miền Nam là tác giả cuộc thảm sát ở Huế thì tại sao sau khi
chiến thắng, nhà nước cộng sản không lập một đài tưởng niệm như Mỹ Lai chẳng
hạn, đây vừa là một lý do nêu lên tội ác “Mỹ Ngụy” mà ngược lại cứ im hơi lặng
tiếng để đến nỗi bà Lan phải thắc mắc [4]
Cũng nhân nói về vấn đề này, chính tôi cũng có một thắc
mắc là từ năm 1968 đến giờ đã 45 năm, chính quyền của nước Việt Nam XHCN chưa
hề chính thức lên tiếng công nhận lẫn phủ nhận bằng văn bản trách nhiệm
của họ trong vụ thảm sát ở Huế (như viện Duma đã làm).
Thứ sáu: Để biện minh cho
trách nhiệm của “quân nổi dậy”, một số người đã nói rằng thủ phạm là do
một số “quần chúng” vì quá phẫn nộ “các phần tử có nợ máu với nhân
dân” nên đã “xử tử chúng”. Điều này phi lý vì sau khi Huế được quân
VNCH tái chiếm thì những “quần chúng” ấy đi đâu? Chắc chắn họ đã vượt
thoát cùng với quân giải phóng sau khi kế hoạch xây dựng một chính phủ không
thành. “Quần chúng” ấy nói trắng ra đó là những cán bộ nằm vùng (con số
này vào khoảng 150, trong đó có nhiều sinh viên Huế hiện vẫn còn sống, có nhiều
người còn đang dạy học, có người thành đạt trên đường công danh. Mong các anh
chị cũng lên tiếng công nhận hoặc phủ nhận trách nhiệm của mình để rộng đường
dư luận).
* * *
45 năm đã trôi qua từ Tết Mậu Thân 68, chiến tranh cũng
đã chấm dứt được 38 năm. Một thời gian quá đủ để đưa ra ánh sáng những uẩn khúc
của thảm họa lớn nhất trong chiến tranh, đã cướp đi sinh mạng của hơn 7000 nạn
nhân vô tội.
Nếu có đủ dũng khí này, đây quả là một điều tiến bộ của
một chế độ vẫn được coi là của dân, do dân và vì dân. Trong quá khứ chính quyền
cộng sản đã xin lỗi nhân dân về vụ Cải cách ruộng đất năm 1945, và gần đây nhất
lãnh đạo chính phủ cũng lên tiếng xin lỗi về những sai sót trong việc điều hành
đất nước, đó là chưa kể rất nhiều lần các cơ quan, các đại diện hành pháp và tư
pháp lên tiếng công khai xin lỗi và bồi thường cho nạn nhân. Điều xin lỗi này
chẳng ảnh hưởng gi đến uy tín của chế độ mà ngược lại nó còn làm cho người dân
tin tưởng vào thực tâm sửa sai của nhà nước cũng như trong chủ trương xóa bỏ
hận thù.
Ngược lại, nếu chính quyền thấy những xác định của đạo
diễn Lan là chính xác (xác suất này có lẽ đúng hơn cả vì truyền thông báo chí
đã liên tục quảng cáo cho bộ phim này) thì cho phép chúng tôi, những người dân
bình thường thực hiện một bộ phim hoặc chí ít là những cuộc phỏng vấn “phản
biện” rồi công bố trước công chúng hầu làm rõ những uẩn khúc chưa được làm sáng
tỏ.
Phạm Minh Hoàng
[1]
Báo Sàigòn Giải Phóng, 13/2/2013
[2]
Tạm dịch là Cuộc tàn sát bị bỏ quên. Tác giả là một bình sĩ hải quân Mỹ
sau trở thành phóng viên chiến trường
[3]
Về chuyện này, ngay cả Lê Minh cũng bị nhói trong tim khi viết hồi ký: “Tôi
thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. [Về] sự tang tóc trong biến cố Mậu
Thân […] còn lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với
nhân dân trong một cuộc chiến tranh là điều không tránh khỏi, một khi quần
chúng đã nổi dậy. […] Rốt cuộc là đã có những người bị xử lý oan trong chiến
tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo, trong đó có
trách nhiệm của tôi.”
[4]
Đầu năm 2013, Huyện Bình Chánh (TPHCM) có cho xây một đài tưởng niệm nhưng là
để tưởng niệm các Liệt Sĩ chết trong Tết Mậu Thân 68
No comments:
Post a Comment