Sunday, 4 September 2016

VẾT THƯƠNG LÒNG CỦA MỘT THẾ HỆ (Phan Thanh Tâm)




Thứ Bảy, ngày 03 tháng 9 năm 2016
.
Hình bìa sách “Thơ Lính Chiến Miền Nam (ARVN Soldiers Poetry)

Tuyn tập Thơ Lính Chiến Miền Nam (ARVN Soldiers Poetry) tập hợp 125 bài thơ của hơn 50 tác giả là tuyển tập có nhiều hình ảnh sống động của thuở tao loan trườc 1975, được vẽ lên bằng chữ về người đi đánh trận với balô, nón sắt, súng dài, súng ngắn, bản đồ, địa bàn; ở một tiền đồn xa xôi, hay trong một cuộc hành quân trên kinh rạch vào một đêm đen kịt, hoặc đang nằm kích ở  một khu rừng vào một buỏi chiều tà lúc trăng vừa ló lên ở bên kia đồi. Tuyển tập còn vang vang tiếng  bom, tiếng đạn, tiếng ca, tiếng khóc, tiếng gió, tiếng lá khô xào xạc, cùng tiếng chửi thề và cả tiếng sóng trong lòng của những người trong cuộc; và dường như có phảng phất cả  mùi tử khí của nhiều xác chết đủ kiểu.


Hầu hết các bài thơ đều có âm điệu và màu sắc đáng nhớ vọng lên nỗi niềm của người chiến binhCác bài thơ chẳng những đã thể hiện những chấn thương trong tâm hồn của tác giả; mà còn ghi dấu một đia danh, một nẽo đường nào đó trên khắp bốn vùng chiến thuật.

Tuyển tạp “đầy chất lính trận”. Người sưu tập và chuyển ngữ tuyển tập là cu sinh viên sĩ quan khóa 3/73 Trường Bộ Binh Thủ Đức  Nguyễn Hữu Thới (NHT), sinh năm 1953, hin sống ở  Sài Gòn. Trong lời giới thiệu, tác giả cho biết, các bài thơ này là của lính tác chiến thứ thiệt. Một số đã chết trận, nhiều người mất đi một phần thân thể; sau chiến tranh họ phải ở tù, bị hành hạ, bị giết hại. Một số khác, may mắn hơn thì lưu lạc xứ người trong lứa tuổi về chiều.

Tôi không phải là người sính thơ nhưng khi đọc tuyển tập tôi thấy nó hay vì nó chân thật. Trong những câu thơ bàng bạc nỗi ”thống hận” không đối với địch quân mà chỉ đối với chiến tranh và vận rủi của đất nước. Đúng như tác gỉa NHT nhận xét, chữ nghĩa trong thơ không cường điệu, không làm dáng. Họ không nói thánh, nói tướng  mà đầy vẻ hào hiệp. Họ ngang tàng mà không  ngang ngược, phách lối; không bi thảm hóa hoàn cảnh sống và chết của mình và đồng đội. Hồn thơ toát ra một phong cách khai phóng và còn cho thấy họ đã sống trong một không khí tự do, cởi mở. Câu thơ rất đơn giản, khi thì mạnh mẽ, cứng cỏi; khi thì đầy tình cảm, đầy những ham muốn rất người.

Ôi năm năm dài ta tới lui cuồng nhiệt
Ta được ngủ bờ  ngủ bụi giữa sình lầy
Ta được chuyện trò cùng muỗi mòng điã vắt
Ta được ăn gạo hẩm cơm thiu
Ta được uống nước đià un rửa
Ta được trực thăng vận kích đêm
Ta được thủ dâm từng đêm ham muốn
Ta được ngửi xác thối máu tanh
 Ta được nhớ em tận cùng nổi nhớ
Hà Nghiêu Bích ( Thơ Viết Từ Một KBC)

Tôi cũng có nhận xét như tác gỉa tuyển tập NHT là những dòng thơ sẽ  “cho ta cảm thấy dường như những người lính này đã linh cảm - mặc dù đã nhập cuộc, đã góp phần vào công cuộc chung nhằm giúp mau kết thúc thời kỳ đen tối - niềm mơ ước chung của họ về một quê hương thanh bình, tươi sáng… có lẽ rồi cũng sẽ không thành! Họ không chủ bại nhưng quả thật khá bi quan. Nó như một dự cảm cho thân phận của họ, của đất nước”.  Tuy vậy, không thấy có dòng thơ nào nói lên lòng căm thù người lính bên kia chiến tuyến “Chúng ta đều bình đẳng trước thương đau” (Ý Yên). Dù rằng họ phải “xếp bút, treo nghiên, bỏ mái trường”(Phạm Quang Ngọc)  để “Rừng thưa dạt gió Hạ Lào; đêm nằm phục kích nhìn sao nhớ nhà.( Trần Vạn Giả)

Tác gỉa các bài thơ gốc gác từ đâu và là ai? Theo lời giới thiệu trong tuyển tập, họ đã đáp lời sông núi, “đi chiến đấu để đổ  máu và chết”. Họ có thể là một sinh viên đã tốt nghiệp đại học hay dở dang đại học, một thầy gíao, một kỹ sư hay một giáo sư khoa bảng, một học sinh vừa xong trung học.” Dù độc thân hay đã lập gia đình, họ đều rất trẻ, đang tuổi thanh xuân với nhiều mộng tưởng”. Họ cùng được đào tạo ở Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức hay Trường Bộ Binh hoặc trường Ha Sĩ  Quan Đồng Đế. Họ chỉ mơ ước thanh bình, để có thể  trở về và sống lại lối sống của họ. Nhập ngũ, họ không phải lính thành phố, họ đều có những trải nghiệm phong phú và tàn bạo vì hoàn cảnh sống chết của họ quá đặc biệt.

Hãy ngủ ngon đừng kinh hoàng nghe con
Dù đêm nay thật nhiều súng nổ
Hãy ngủ ngon đừng đợi chờ nghe em
Dù đêm nay anh đi ra trận
Dù đêm nay anh đi không về
Tô Nhược Châu  (Lời Cho Vợ Con Trước Giờ Hành Quân) 

Vẫn theo lời của tác giả tuyển tập NHT, nếu không được hấp thụ một nền giáo dục đề cao nhân bản, họ khó lòng viết ra được những dòng thơ của đời lính trận hay như vy.Tác gỉa NHT cho biết, tuyển tập không gom đủ về thơ chiến đấu của những tác gỉa nổi tiếng hoặc vô danh trong quân đồi miền Nam. Đây chỉ  là một sưu tầm nhỏ của một độc gỉa bình thường, môt người lính đọc thơ của lính. Sự chọn lựa những tác gỉa đưa vào tập thơ hoàn toàn chủ quan và không chuyên nghiệp; nhiều nhà thơ quân đội nổi tiếng ở miền Nam đã không có mặt. Lý do? Người sưu tầm không có cơ hội đọc thơ của các vị đó hoặc có khi chỉ vì vài tác gỉa nào đó, dù là quân nhân, nhưng không phải lính chiến, nên những bài thơ của họ không được đưa vào.

Mưa đổ quanh mặt trận đầy thây người chết
Xác vắt trên kẽm gai, xác vắt cạnh hào
Xác cúi khom khô cứng, xác gầy như bệnh
Mưa trên xác chết trời chẳng chút nghẹn ngào
Có mẹ già bỏ nhà chạy mang cháu nhỏ
Những đoàn người ngơ ngác chạy trốn chiến tranh
Đạn vẫn rơi và thêm nhiều người ngã xuống
Còn nỗi chết nào hơn nỗi chết quanh đây
Nguyễn Tiến Cung (Mưa Và Nõi Chết ở An Lộc)

Mấy tháng rồi tao chưa thấy Saigon
Mấy tháng rồi tao không được hôn em
Tao thèm làm tình như tao thèm sống
Tao thèm hôn em hôn liên miên
Lê Công Sinh ( Người Về)

Trong lời mở đầu tuyển tập, tác gỉa NHT cho biết, ông thực hiện tuyển tập với bản dịch các bài thơ sang tiếng Anh, nhằm hướng đến độc gỉa mà tiếng Anh là bản ngữ, nhất là các độc gỉa từ những nước ít nhiều đã dính líu đến cuộc chiến, để phần nào giúp họ hiểu đuợc tâm tình cũng như xúc cảm của người lính miền Nam. Theo tác gỉa  tuyển tập, ông tự thấy có trách nhiệm ghi lại, giữ lại những gì đã là tim óc, máu huyết của những đồng đội đàn anh, nhũng người đã dùng thơ nói lên thay cho mình và cả thế hệ của mình những điều mình đã trải qua và cảm nhận nhưng đã không thể nói. Vẫn theo tác gỉa NHT, “nếu không được gìn giữ, biết đâu rồi sẽ mai một, sẽ bị quên lãng, sẽ biến mất.. thì quả là đáng tiếc cho cho tất cả chúng ta, nhất là với những nhà nghiên cưú và phê bình văn học Việt Nam”  về “Người lính miền Nam đi đánh giặc ; ba lô mang theo hồn thơ văn (Nguyện Phúc Sông Hương)” 

Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người hiệu đính tuyển tập, trong lời Bạt viết, “những binh sĩ nhà thơ naỳ không những đã đền ơn xã hội sinh thành ra họ mà còn lưu lại một di sản không xóa nhòa được cho các thế hệ mai hậu để con em chúng ta có thể chiêm ngưỡng bất kể họ ở đâu trên khắp điạ cầu”. Cố Giáo sư còn tỏ ý mong tập thơ sẽ giúp độc gỉa  có khái niệm tốt về người lính VNCH, những người suốt 20 năm đã xả thân bảo vệ hoà bình và an ninh cho miền Nam. Cố Gíao sư trong lời dẫn nhập còn viết, tuyển tập là sản phẩm của lính chiến đấu trong một cuộc chiến cam go. Đứng trước một kẻ thù đày mưu mẹo, nhưng lòng họ vẫn có chỗ cho người yêu, cho tình đồng đội, không trừ cả tình lân mẫn dành cho đối phương. Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương cho biết cố Giáo sư ngoài viết Anh-Việt lời dẫn nhập và lời bạt cũng đã giúp layout cuốn sách.

Ba làm sao quên được
Rồi ngày mai ngày mốt và những ngày sau đó
Ba sẽ ở một tiền đồn xa xôi nào đó
Thật ngòai tầm nhìn của con , của mẹ, của nội ngoại
Con không bao giờ biết
Không ai có thể biết được
Một đời làm lính thú như ba

Cho tôi ngủ nhà một đêm
Để nghe hơi thở của vợ, của con mùi nước tiểu
thương yêu đã từ lâu tôi thèm muốn
Âu yếm nào trên môi
Hãy cho tôi lời xin thật nhỏ
Một lần rồi thôi
Đã từ lâu ba hằng nhớ các con
Như đã khóc một mình
Trần Yên Hòa (Lời Xin)

Trong tuyển tập có bài thơ Kỷ Vật. Bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Ông đã chắp cánh cho nó bay xa cùng khắp đất nước từ năm 1970 khiến bản nhạc trở thành một hiện tượng. Tuyển tập in bài thơ là của Chuẩn Nghị với ghi chú: Chuẩn Nghị.tên thật là Nguyễn Đức Nghị, người Phan Rang, nhập ngũ khóa 26 SQTB Thủ Đức, về tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, hy sinh tại mật khu Bời Lời, Tây Ninh tháng 4/1969; đã viết nhiều thơ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong, Chiến Sĩ Cộng Hòa. Bản nhạc của Phạm Duy thì ghi lời là của Linh Phương. Nhà văn Uyên Thao, chủ trương Tủ sách Tiếng Quê Hương (TQH), nơi phát hành tuyển tập cho biết, tác gỉa tuyển tập NHT đã khẳng định, bài thơ là của Chuẩn Nghị vì Chuẩn Nghị là bạn của ông làm từ đầu năm 1969..

Tựa bản nhạc của Phạm Duy là  Kỷ Vật Cho Em. Tựa của Linh Phương: Để Trả Lời Một Câu Hỏi.  Bản gốc của hai bài thơ  Linh Phương, Chuẩn Nghị đều có hai câu đầu:” Em hỏi anh bao giờ trở lại; Xin trả lời mai mốt anh về”. Bài của Chuẩn Nghị làm bằng thể thơ tự do còn của Linh Phương bằng thể thơ thất ngôn. Cả hai bài cùng viết về sự mất mát của chiến tranh và có  nhiều ý tưởng trùng nhau nên khiến gây ra nghi vấn.

Tủ sách TQH là nhà xuất bản hay giới thiệu các tác phẩm giá trị của các tác gỉa đang sống tại quê nhà và các tác gỉa trẻ. Mọi giao dịch qua địa chỉ: P.O Box 4653- Fall Church, VA 22044 – USA hay qua điện thư: uyenthao174@yahoo.com.    

 Kỷ Vật. - Chuẩn Nghị
Em hỏi anh bao giờ trở lại ?
Xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về không bằng Mũ Đỏ Áo Hoa,
Anh trở về không bằng huy- chương chiến-thắng.
Anh trở về trong chiều hoang chiếu nắng,
Trong hòm gỗ hoặc trên chiếc băng -ca.
Anh trở về nằm giữa vòng hoa,
Những vòng hoa tang chan-hòa nước mắt. 
Anh gởi về cho em vài kỷ-vật,
Đây chiếc nón sắt xuyên mấy lỗ đạn thù.
Nó đã từng che nắng che mưa,
Đã từng hứng cho anh giọt nước.
Chiều dừng quân nơi địa-đầu lạnh buốt,
Nấu vội-vàng trong đó nắm cơm khô.
Anh gởi cho em một tấm poncho,
Đã rách nát theo hình-hài năm tháng.
Lều dã-chiến trên đồi hoang cháy nắng,
Che cơn mưa gió lạnh buổi giao mùa.
Làm chiếc võng nằm nhìn đời lính đong-đưa,
Và….khi anh chết cũng poncho tẫn-liệm.
Nay anh gửi cho em làm kỷ-niệm,
Nhận không em chút tình lính này đây ?
Tình lính đơn-sơ vì chinh-chiến kéo dài,
Nhưng tình lính chỉ lạt phai
Khi hình-hài và con tim biến-thể. 

Phan Thanh Tâm
Saint Paul, 8/16.





No comments:

Post a Comment

View My Stats