Ngọc
Việt -
GDVN
08:00 14/08/16
(GDVN)
- Người Trung Quốc đã chuẩn bị mọi kế sách thâm sâu cho việc hình thành “ma trận
phá hoại”. Vì vậy muốn đối phó hiệu quả thì phải có một hệ thống bao gồm...
VOA ngày 8/12/2015 đưa tin. một số người dân Đà Nẵng
đã né luật để giúp người Trung Quốc mua đất ven biển hướng ra Biển Đông. Trước
thông tin này, nhiều người nhận định đây là hành vi rất tai hại cho đất nước Việt
Nam.
Song với người viết thì hành động “cõng rắn cắn gà
nhà” của một nhóm người Việt Nam “không yêu nước” ấy không quá nguy hại, bởi lẽ
nó có thể ngăn chặn được. Sự nguy hại thực sự lại nằm ở phía sau hành động của
người Trung Quốc.
Như người viết từng phân tích qua bài “Quy trình ngược tinh vi”, Trung Quốc luôn tìm cách hợp
pháp hoá những hành vi gây hại của họ, để từ đó triệt hạ đối phương một cách dễ
dàng và tác hại đạt mức cao nhất.
Khi đối phương ngấm đòn thì họ bắt đầu gây nhiễu loạn,
từ đó tạo ra hiệu ứng phải điều chỉnh cơ chế quản lý của cả một quốc gia để đối
phó với “nhân tai” Trung Quốc. Lúc đó một “ma trận phá hoại” được người Trung
Quốc giăng ra với bao hệ luỵ cho cả một đất nước.
Người Trung Quốc có thể thay đổi sở hữu tại một vài
doanh nghiệp Việt Nam, khiến cho luật pháp của Việt Nam phải bổ sung, sửa đổi
nhưng không dễ ngăn chặn. Ảnh minh họa: pbs.org
Trong bài “Cần cảnh giác với ma trận phá hoại kinh tế Việt Nam từ Trung
Quốc”, người viết đã phân tích, sự nguy hiểm bởi “ma trận phá hoại” của người
Trung Quốc là, chỉ cần vài tác nhân mang “yếu tố” Trung Quốc gây hại đã có thể
khiến cả một nền kinh tế phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề.
Và theo cá nhân người viết thì có thể nhận diện, hiện
nay kinh tế Việt Nam đã bị hoành hành bởi cái “ma trận phá hoại” ấy của người
Trung Quốc.
Theo VnExpress, ngày 26/7 vừa qua, ông Trần Văn Sơn,
Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư Đà Nẵng đã cho biết, chỉ cần góp vốn, mua cổ
phần rất nhỏ tại các doanh nghiệp, dự án...nhiều người Trung Quốc đã có thể trở
thành nhà đầu tư, sử dụng đất tại Việt Nam.
Song nhiều người đến Đà Nẵng không phải để kinh
doanh, mà là muốn có giấy chứng nhận đầu tư để làm việc khác. Và ông Sơn đã đề nghị
cần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam. [2]
Trong khi đó, ông Lưu Phước Lộc - Giám đốc Công ty
chế biến gỗ Mtrade, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp chế biến gỗ tỉnh Bình
Dương cũng cho biết, hiện nay đang có làn sóng các doanh nghiệp gỗ của Trung Quốc
đầu tư vào tỉnh Bình Dương.
Nguy hại là ở chỗ họ đội lốt doanh nghiệp Việt Nam,
mang hàng hoá gần như thành phẩm sang hoàn tất, để lấy xuất xứ Việt Nam xuất khẩu.
Ông Lộc đề xuất Bộ Công thương nên có chính sách về xuất xứ rõ ràng hơn. [4]
Như vậy là hệ thống luật pháp Việt Nam phải có những
bồ sung, sửa đổi để có thể tránh thiệt hại cho kinh tế - xã hội vì những yếu tố
gây hại từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, đối phó virus từ “ma trận phá hoại” của
người Trung Quốc là cực kỳ khó khăn, trong khi đó Việt Nam lại có thể phải gánh
hậu quả, bởi những biện pháp phá “ma trận phá hoại” có nguy cơ làm thiệt hại
cho những đối tác quan trọng khác của Việt Nam.
Trung Quốc "nẫng tay trên" những lợi ích to lớn của người dân, doanh nghiệp Việt Nam từng ngày
Trung Quốc "nẫng tay trên" những lợi ích to lớn của người dân, doanh nghiệp Việt Nam từng ngày
VOA ngày 18/12/2015 dẫn lời một nhà hoạt động xã hội
Nhật Bản cho biết, các cánh tay của doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam là rất
đáng lo ngại.
Điều nguy hiểm là người Trung Quốc đang gây thiệt hại
cho người dân, cho doanh nghiệp Việt Nam một cách rõ ràng, không cần sự tiếp
tay của người Việt Nam.
Hành động của họ rất cụ thể nhưng các cấp chính quyền
Việt Nam không thể ngăn chặn hay xử lý, bởi lẽ nó không vi phạm quy định của
pháp luật Việt Nam. Điều đó cho thấy, lợi ích của Việt Nam đang bị mất đi một
cách "hợp pháp."
Theo Infornet, ông Trần Văn Sơn, Giám đốc Sở Kế hoạch
& Đầu tư Đà Nẵng cho biết, Luật Đất đai của Việt Nam không cho phép người
nước ngoài sở hữu đất đai tại Việt Nam.
Vì vậy, người Trung Quốc mua cổ phần hay liên doanh
với công ty trong nước theo tỳ lệ, bên Việt Nam 51% nhưng góp vốn bằng quyền sử
dụng đất - bên Trung Quốc 49%. Từ đó hình thành nên doanh nghiệp đầu tư trong
nước và được cấp phép hoạt động.
Tuy nhiên, khi đi vào hoạt động, phía Trung Quốc mua
hết 51% cổ phần của phía Việt Nam, điều đó được Luật Doanh nghiệp cho phép.
Lúc này doanh nghiệp đã trở thành “mình ong xác ve” – doanh nghiệp trong nước nhưng thuộc
sở hữu 100% của người Trung Quốc, trong đó bao gồm cả quyền sử dụng đất.
Thế là người Trung Quốc có thể sở hữu đất hợp pháp
dưới danh nghĩa doanh nghiệp, nhưng luật pháp Việt Nam lại không thể điều chỉnh
hành vi này.
71 người Đà Nẵng đứng tên mua 137 lô đất cho
người Trung Quốc. Ảnh: Hữu Khá / Báo Tuổi Trẻ.
Và không chỉ dừng lại ở việc sở hữu đất, người Trung
Quốc còn tìm cách trốn thuế. Điều 46 Nghị định 118 quy định các tổ chức khi mua
cổ phần, góp vốn thì không cần thay đổi giấy chứng nhận đầu tư. Điều này khiến
cho nhà đầu tư Trung Quốc thực hiện chuyển nhượng nội bộ để trốn thuế.
Dù nhận diện được sự thay đổi sở hữu chủ, nhưng
không có căn cứ xác định hoạt động chuyển nhượng, vì thế có vụ chuyển nhượng
giá trị ngàn tỷ VND không thu được thuế. [3]
Còn theo ông Lưu Phước Lộc, Phó Chủ tịch Hiệp hội
Doanh nghiệp chế biến gỗ tỉnh Bình Dương, nếu không có biện pháp cụ thể, rất có
thể các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sẽ “chết”.
Doanh nghiệp Việt Nam bị mất đơn đặt hàng hằng ngày,
khiến cho thị trường thì còn đó, nhưng miếng bánh đã nằm trong tay người khác.
Doanh nghiệp Trung Quốc mang danh doanh nghiệp Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường
xuất khẩu và khi TPP có hiệu lực thì Trung Quốc sẽ lấy hết lợi thế ưu đãi của
Việt Nam. [4]
Mớ bòng bong bổ sung, sửa đổi quy phạm pháp luật để phá “ma trận phá hoại” của Trung Quốc và hệ luỵ cho kinh tế đất nước
Mớ bòng bong bổ sung, sửa đổi quy phạm pháp luật để phá “ma trận phá hoại” của Trung Quốc và hệ luỵ cho kinh tế đất nước
Có thể thấy rằng, gánh nặng pháp lý hay nói cách
khác là những quy định nhiều phân đoạn của pháp luật Việt Nam đang là rào cản đối
với các nhà đầu tư, cả trong nước và quốc tế.
Chính phủ kiến tạo vừa mới kiện toàn, đang đặt mục
tiêu đơn giản hoá thủ tục hành chính, cắt giảm nhiều tầng nấc trong quản lý,
bãi bỏ nhiều quy định “con” để Việt Nam có hành lang pháp lý thông thoáng, thu
hút và khuyến khích đầu tư.
Vậy mà khi chưa cắt giảm được bao nhiêu thì “ma trận
phá hoại” của Trung Quốc đã làm phát sinh thêm nhiều quy định.
Song bổ sung ra sao, sửa đổi như thế nào, để quy định
của pháp luật không còn là rào cản đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh cũng
như hợp tác – đầu tư thì không dễ nhận diện và thực hiện.
Sẽ có tình trạng “9 người 10 ý” trong việc đề xuất bổ
sung, sửa đổi quy định của luật pháp để đối phó với “ma trận phá hoại” Trung
Hoa.
Không những vậy, một nghiệp vụ kinh tế phát sinh có
thể được điều chỉnh bởi nhiều loại quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực mà
nghiệp vụ kinh tế phát sinh đó có liên quan, từ đó sẽ có những bất khả kháng
trong bổ sung, sửa đổi quy phạm pháp luật vì “lợi bất cập hại” cho đất nước.
Từ thực tiễn đó, việc nhận diện yêu cầu bổ sung, sửa
đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trở thành mớ bòng bong với cơ quan quản
lý nhà nước. Xin đưa ra ví dụ thực tế.
Theo VnExpress, tại buổi làm việc giữa đoàn công tác
trung ương với UBND thành phố Đà Nẵng, Giám đốc Sở Kế hoạch & đầu tư Đà Nẵng
đề nghị cần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư quy định thời hạn hoạt động tối đa cho
các dự án nhỏ, để cơ quan cấp chứng nhận đầu tư có cơ sở xử lý.
Cần bổ sung quyền cho cơ quan đăng ký đầu tư xem xét
về tính khả thi, khả năng đáp ứng tài chính, để xem xét và quyết định đối với
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài…[2]
Có lẽ, chỉ cần nhìn vào vài nội dung đề xuất bổ
sung, sửa đổi Luật Đầu tư là có thể khiến cho nhiều nhà đầu tư ái ngại khi quyết
định đầu tư vào Việt Nam, vì nó quá nhiêu khê với người làm ăn chân chính.
Còn những đề xuất thì không thực tế, thậm chí trái với
nguyên lý hoạt động kinh tế. Bởi lẽ, một nhà đầu tư có thể bắt đầu với một dự
án nhỏ thăm dò, khi đó họ phải được tạo điều kiện tốt, như vậy từ đó họ mới có
niềm tin để quyết định mở rộng đầu tư.
Trong khi đó, theo ông Lưu Phước Lộc thì mục đích của
các doanh nghiệp Trung Quốc là họ muốn lấy C/O (xuất xứ) của Việt Nam, nên để
ngăn chặn tình trạng này Bộ Công Thương phải có quy định với mẫu C/O cụ thể.
Chẳng hạn, bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ sản
phẩm được sản xuất tại Việt Nam theo từng tỷ lệ: 100%, 70% và 50%. Còn đối với
những sản phẩm có tỷ lệ nội địa hóa dưới 30% thì dứt khoát không cấp C/O. [4]
Đề xuất của ông Lưu Phước Lộc nghe thì có vể hợp lý
nhưng không thực tế, bởi lẽ doanh nghiệp nước ngoài muốn nội địa hoá thì phải từng
bước để kiểm tra khả năng và giúp người Việt Nam làm quen với công nghệ của họ.
Do vậy khởi đầu cho một quy trình sản xuất, tỷ lệ nội
địa hoá có thể sẽ thấp hơn 30%. Thế là một rào cản với hội nhập đã được dựng
lên cho nhà đầu tư và đương nhiên thiệt hại cho kinh tế Việt Nam là rất lớn.
Rõ ràng, việc đối phó với “ma trận phá hoại” của người
Trung Quốc quả là nan giải. Càng tìm cách ngăn chặn nguy cơ gây thiệt hại từ
người Trung Quốc thì ngược lại càng làm tăng nguy cơ gây thiệt hại cho những đối
tác khác.
Cái “ma trận phá hoại” đã đưa việc bổ sung, sửa đổi
quy phạm pháp luật, đưa quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý tại một quốc gia
vào “mê hồn trận” với cái tỉ lệ nghịch chết người: Nếu giảm thiệt hại từ Trung
Quốc sẽ tăng thiệt hại từ đối tác khác.
Làm sao phá được “ma trận phá hoại” của Trung Quốc để tránh hậu hoạ cho đất nước?
Làm sao phá được “ma trận phá hoại” của Trung Quốc để tránh hậu hoạ cho đất nước?
Có thể thấy rằng, việc nhân diện nguy cơ từ “ma trận
phá hoại” của người Trung Quốc là chậm và bị động với cả hệ thống doanh nghiệp
và cơ quan chức năng tại Việt Nam.
Tất cả những đề xuất bổ sung, sửa đổi văn bản quy phạm
pháp luật đều ở tình trạng chống chứ không còn thời gian để phòng nữa. Khi cơ
quan chức năng hay doanh nghiệp dựa trên thực tế thiệt hại để đề xuất giải pháp
thì giải pháp sẽ không thực tế và không kịp thời.
Như người viết đã từng phân tích, “ma trận phá hoại” từ Trung Hoa đại lục đã là những loại
virus có thể phá hoại khắp thế giới. Do vậy, đối phó với nó thì phải bắt đầu từ
nhận diện nguy cơ tiềm tàng.
Người Trung Quốc đã chuẩn bị mọi kế sách thâm sâu
cho việc hình thành “ma trận phá hoại”. Vì vậy muốn đối phó hiệu quả thì phải
có một hệ thống bao gồm cả giải pháp, phương pháp, biện pháp khoa học và thực tế.
Song quan trọng nhất vẫn là nhận thức được bản chất vấn đề.
Trong khi TPP thì chưa vận hành, nhưng hàng ngày
hàng giờ virus từ “ma trận phá hoại” đang gây thiệt rất lớn cho người dân,
doanh nghiệp và đất nước.
Người viết cho rằng, không thể liệt kê những kẽ hở của
luật pháp Việt Nam khiến cho virus tử thần từ “ma trận phá hoại” Trung Hoa, bởi
lẽ những bổ sung, sửa đổi sẽ lên đến con số hàng trăm ngàn khoản mục và như thế
“mê hồn trận” càng khủng khiếp hơn.
Do vậy, nhận diện bản chất vấn để qua triết lý kinh
doanh và cơ chế hợp tác của người Trung Quốc là điều quan trọng nhất trong việc
xây dựng kế sách phá “ma trận phá hoại” Trung Hoa.
Có thể thấy rằng, Singapore là một quốc gia có nền
kinh tế phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc, nhưng chính phủ Singapore vẫn có thể
xây dựng đất nước Singapore thành bến đậu tốt nhất cho mọi con thuyền lợi ích
thả neo.
Vì vậy, Việt Nam có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm
của Singapore trong quá trình đối phó với “ma trận phá hoại” Trung Hoa.
Tài
liệu tham khảo:
Ngọc
Việt
No comments:
Post a Comment