Nam
Nguyên, phóng viên RFA
2015-11-02
2015-11-02
Áp
lực nợ công đè nặng ngân sách quốc gia, trong bối cảnh bội chi triền miên. Đây
là vấn đề được Quốc hội Việt Nam bàn thảo nhiều nhất trong kỳ họp cuối cùng hiện
nay. Nợ công của Việt Nam đã tăng hơn 4 lần trong một thập niên, hiện nay theo
Bộ Kế hoạch Đầu tư nợ công là 66,4% GDP Tổng sản phẩm nội địa, còn bộ tài chính
thì báo cáo chỉ có 59,6% tính đến hết năm 2014. Phải chăng nợ công của Việt Nam
đã rơi vào tình trạng nguy hiểm vượt trần cho phép 65% và khả năng trả nợ rất
khó khăn. Nam Nguyên tìm hiểu vấn đề này qua phỏng vấn Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô
Trí Long, chuyên gia kinh tế hiện sống và làm việc ở Hà Nội.
Trước hết PGSTS Ngô
Trí Long nhận định:
Tôi
nghĩ cách tính thứ nhất phải đi theo thông lệ quốc tế, đó là chuẩn nhất. Thứ
hai quan trọng nhất không phải mức nợ bao nhiêu, mà vấn đề hiện nay xu hướng nợ
công của Việt Nam tăng nhanh và nguồn để trả nợ rất là hạn hẹp, hầu như không
có. Một trong những vấn đề từ bài học nhãn tiền của Hy Lạp là gì? là sự không
minh bạch, không rõ ràng mà báo cáo tô toàn màu hồng, rồi đến một lúc nào đó bản
chất của nó lộ ra thì sẽ đi đến vỡ nợ.
Sự
thực đó hiện nay là vấn đề Quốc hội đang quan tâm, thứ nhất là vấn đề ngân sách
thiếu bền vững. Mặc dù thu thì luôn luôn vượt chỉ tiêu, nhưng mà thu lại không
đáp ứng được chi. Vấn đề thứ hai là hiệu quả đầu tư công, hiệu quả sử dụng đồng
vốn. Tất cả đều là nguyên nhân tiềm ẩn, hiện nay đối với các nước thí dụ ở Châu
Âu chuẩn nợ công là 60% GDP, thâm hụt ngân sách 3% là báo động đỏ. Việt Nam thì
lại khác, tất nhiên so sánh các nước là để so sánh, nghiên cứu thôi. Nhưng vấn
đề bản chất của nó là khả năng chi trả, có khả năng hay không? vấn đề làm ăn có
hiệu quả hay không? Vấn đề quan trọng là đánh giá thực trạng, nhưng mỗi một cơ
quan lại đánh giá khác nhau và Chính phủ thì dựa vào Bộ Tài chính, cho nên số
liệu là màu hồng. Đây là những cảnh báo nguy cơ vấn đề nợ công của Việt Nam.
Nam
Nguyên: Như
Giáo sư có nói, vay để phát triển có nghĩa là vốn vay phải giúp làm lợi, sinh lời
có tiền để trả nợ và tái đầu tư. Nó liên quan đến hiệu quả đầu tư, chi phí và
năng suất lao động. Phải chăng Việt Nam rất kém, không thuận lợi trong những
đánh giá này?
PGSTS
Ngô Trí Long: Điều
này hoàn toàn chính xác, bởi vì trong cơ cấu tổng số nguồn chi của ngân sách,
trong cơ cấu thu và chi mặc dầu thu luôn luôn vượt dự toán nhưng chi lại quá phần
thu đó, đấy là sự nguy hiểm. Nguy hiểm thứ hai là cơ cấu chi của ngân sách, chi
thường xuyên chiếm quá lớn, hiện nay là hơn 70% và phần còn lại thì chủ yếu là
để trả nợ. Trong khi theo qui định của Việt Nam cũng như quốc tế, chi để trả nợ
trên 25% nguồn thu là cực kỳ nguy hiểm, Việt Nam đang tiếp cận ngưỡng đó. Trong
điều kiện đó vay hiện nay nói là phục vụ cho đầu tư nhưng thực chất phục vụ cho
vấn đề tiêu dùng, chi thường xuyên. Cho nên bối cảnh thực trạng nợ công Việt
Nam thì đây là sự cảnh báo, báo động rất là cao. Nếu cứ tiếp diễn thì trước hay
sau hậu quả nhãn tiền như Hy Lạp đã xảy ra.
Nam
Nguyên: Thưa
Giáo sư, trong 5 năm tới VN sẽ phải vay trên 3 triệu tỷ đồng để bù vào bội chi
và nợ gốc đến hạn. Câu chuyện này thực chất như thế nào, có đại biểu Quốc hội
nói nợ 10 năm đời con phải trả, nợ 30 năm thì đời cháu phải thanh toán. Nhận định
gì?
PGSTS
Ngô Trí Long: Nói
chung nguy cơ về nợ công không phải trong tương lai mà đã hiện hữu trước mắt rồi.
Không những trước mắt phải trả mà đời con, đời cháu phải trả, không làm khác được.
Với cái kiểu như hiện nay thì vài chục năm nữa cũng chưa trả hết nợ được, điều
này là nhãn tiền. Thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay nói tóm gọn là như vậy.
Làm
sao giữ cho nợ công an toàn
Nam
Nguyên: Thưa
Giáo sư, khi biết được tất cả những thiếu sót khiếm khuyết của hệ thống như vậy,
có giải pháp nào được đưa ra để giữ cho nợ công được an toàn hay không ?
PGSTS
Ngô Trí Long: Nói
chung như tôi đã có bài viết, trên báo chí cũng có rất nhiều giải pháp. Nhưng vấn
đề căn bản thực thi nó như thế nào, lời nói có đi đôi với nhau hay không mới là
vấn đề quan trọng. Giải pháp thì rất nhiều chuyên gia có đề án tái cơ cấu, quản
lý, xử lý đầy đủ mọi lĩnh vực, tất cả rất rõ. Nhưng căn bản thực thi có đúng
hay không, có thanh kiểm tra đúng hay không và có kiên quyết hay không. Thí dụ
như vậy, chứ Luật Đầu tư công đã bắt đầu ban hành rồi, nhưng thực thi nó như thế
nào có hiệu quả hay không thì đó là một vấn đề. Giải pháp rất là nhiều, các
chuyên gia, các đề án, cơ quan chức năng đều nói nhưng cốt lõi vẫn là vấn đề thực
thi. Đây chính là sự nguy hiểm báo động của vấn đề nợ công hiện nay ở Việt Nam.
Nam
Nguyên: Và
cái chính có phải là phải giảm chi tiêu hay không, hiện nay vẫn quá tay chi
tiêu rất bừa bãi. Thưa điều này có đúng hay không?
PGSTS
Ngô Trí Long: Với
một bộ máy, cồng kềnh như của Việt Nam mà ngay đại biểu Quốc hội cũng nói là, rất
nhiều tổ chức cùng song hành như tổ chức Đảng, tổ chức Chính quyền, tổ chức các
đoàn thể và tất cả đều ăn lương nhà nước, trong khi đó năng suất lao động thì
thấp, đây là sự nguy hiểm. Ở Quảng Ninh đã thí điểm nhất thể hóa giữa cơ quan
Đảng với cơ quan Chính quyền. Người ta thấy vấn đề đó nhưng họ không triển
khai, không thực hiện và với một bộ máy cồng kềnh lớn như hiện nay thì không có
một nguồn ngân sách nào có thể kham nổi, đủ nuôi nổi bộ máy như vậy. Chắc chắn
với việc đầu tư, trong khi phải nuôi bộ máy quá lớn như vậy thì tiền phát triển
cho đầu tư, mà chính nguồn này mới là để trả nợ, không được coi trọng, không
đúng thì mức nợ tăng cao và nguồn thu để trả mức nợ đó lại không có, hạn hẹp.
Cuối cùng có dẫn tới vỡ nợ thì cũng là chuyện bình thường.
Nam
Nguyên: Thưa
ngoài những chuyện bộ máy kềnh càng lớn quá, phải chi cho bộ máy nhiều quá thì
lại còn vấn đề thực hiện những dự án không thiết thực tiêu tốn rất nhiều tiền,
thí dụ các dự án tượng đài, hoặc dự án cải cách sách giáo khoa lên tới mấy chục
ngàn tỷ, rồi sau mới rút xuống. Thực trạng là chi tiêu bừa bãi không nghĩ tới
việc phải trả nợ?
PGSTS
Ngô Trí Long: Đây
là vấn đề thanh kiểm tra giám sát việc chi tiêu hay là đầu tư không hiệu quả, đầu
tư dàn trải, thất thoát, tham nhũng rất là lớn. Ví dụ đầu tư cho giáo dục hiện
nay so với thế giới thuộc loại rất cao so với GDP, nhưng thực chất hiệu quả
không có. Nói cách khác hiệu quả rất là kém, việc này chắc chắn dẫn tới hiện tượng
là khó có thặng dư, tức tiền thừa để có thể trả nợ được.
Hiệu
quả theo chúng tôi hiểu một cách rất đơn giản, đó là thu lớn hơn chi hay là đầu
ra lớn hơn đầu vào. Điều này Việt Nam hoàn toàn không có và sẽ gây hậu quả khó
lường.
Nam
Nguyên: Cảm
ơn Giáo sư Ngô Trí Long đã trả lời phỏng vấn.
No comments:
Post a Comment