09/11/2015
Giới thiệu sách:
Discours de la servitude volontaire, Étienne de la Boétie, Flammarion (2
septembre 2015)
Vấn đề
Quyền
dân tộc tự quyết về các vấn đề trọng đại của đất nước là thiêng liêng, tối thượng
và bất khả xâm phạm. Nhưng toàn dân Việt Nam chưa bao giờ có cơ hội hành sử quyền
này.Tất cả mọi việc đã có ĐCSVN tự quyết định và không hề có trưng cầu dân ý
theo đúng nghĩa cao đẹp của nó.
Đây
là một đặc thù của lịch sử dân tộc, nhưng cũng là một nghịch lý cho đất nước.
Lý giải duy nhất cho thực trạng này là vì ĐCSVN tìm ra được hai chử "Nhân
Dân". Nhờ sự khám phá vĩ đại này mà Đảng không những định đoạt thay cho
toàn dân mà còn nằm trên và ngoài Hiến Pháp và hệ thống pháp luật.
Tại
sao dân Việt lại chấp nhận sự lãnh đạo này trong suốt một thời kỳ dài của lịch
sử như vậy? Phải chăng là vì các biện pháp đàn áp của Đảng thành công đến độ lảm
cho dân chúng phải khuất phục? Phải chăng người dân chỉ còn có di cư hay vượt
biên là giải pháp? Phải chăng người dân không còn sức lực và cơ hội nên các
phong trào đấu tranh đều thất bại?
Không.
Thực ra, có một lý giải khác lạ hơn. Không phải lúc nào chế độ độc tài cũng mạnh,
mà chính vì tinh thần nô lệ tự nguyện của nguời dân,
họ quên đi ý nghĩa tự do và bình đẳng và sẳn sàng hy sinh để bảo vệ cho chế độ,
nhờ thế mà chế độ sống lâu hơn. Nghịch lý bi đát này là một thực tế xã hội đã
có tự ngàn xưa mà Étienne de la Boétie luận giải xuất sắc qua Discours de la servitude
volontaire (Luận về tinh thần nô lệ tự nguyện) vào năm 1549. Bài viết
sau đây sẽ giới thiệu danh tác cổ điển này.
Tác giả
Étienne
de la Boétie (1530 – 1562) xuất thân từ một gia đình qúy tộc làm công chức
tại Sarlat, thuộc Perigord, Tây Nam Pháp. Ông học tại Collège de Guyenne, một
trường nổi tiếng tại Bordeaux và Đại học Luật khoa Orléans. Ông đam mê văn
chương cổ điển và khởi đầu dịch thuật một vài thi phẩm La ngữ sang Pháp ngữ.
Năm
1548 vua Henri II ban hành luật thu thuế muối áp dụng cho vùngTây Nam Pháp. Ông
chứng kiến cảnh dân chúng nổi lên phản đối và phải khuất phục vì bị quân đội
hoàng gia đàn áp đẩm máu.
Tại
Đại học Luật khoa Orléans ông quen được với Anne du Bourg, một người thầy khả
kính về sau làm cố vấn cho Toà án Tối cao tại Paris. Du Bourg nổi danh là người
khởi xướng chống đối các đàn áp tôn giáo Tin Lành và năm 1559 bị Toà kết án tử
hình.
Tốt
nghiệp Luật năm 1553 lúc 23 tuổi, La Boétie bắt đầu làm việc tại Quốc hội
Bordeaux. Ông khởi dịch các danh phẩm của Xenophon và Plutarch, tham gia thi
đoàn Pleiade và giao tiếp với các thi sĩ nổi danh như Pierre Ronsard, Jean
Dorat và Jean Antoine de Baif. Tại quốc hội, ông làm quen với một đồng nghiệp
là Michel de Montaigne. Nhờ khâm phục văn tài của La Boétie mà tình bạn nảy nở
và tạo nhiều ý nghĩa trong cuộc đời của Montaigne.
Các
xung đột tôn giáo làm xã hội Pháp căng thẳng, vì chính quyền xem Thiên Chúa
giáo là quốc giáo và quy kết tín đồ Tin Lành giáo là kẻ phản loạn, buộc họ phải
trở lại đạo gốc hoặc rời khỏi nước Pháp. Nhờ kết thân với Michel de l´Hospital,
một giới chức cao cấp của Bộ Tư pháp, mà La Boétie được yêu cầu tham gia đàm
phán để giải quyết tranh chấp trong năm 1560. Ông được mọi người tôn trọng, vì
lòng trung thành với hoàng triều và nhạy cảm trước các phong trào đấu tranh chống
phân biệt tôn giáo. Trong tác phẩm cuối cùng là Mémoire sur l’édit de
janvier (1562), La Boétie tỏ ra một thái độ khoan hoà rõ rệt, vừa ủng hộ
hoàng gia và vừa tương nhượng cho tín đồ Tin Lành trong nhiều quyền lợi luật định.
Do
bịnh dịch lan tràn La Boétie bị đột tử và hưởng dương 32 tuổi. Ông có di chúc để
lại toàn bộ sáng tác và sách vở cho Montaigne. Tài sản này trở thành thư viện
chính của Montaigne.
Tác phẩm
Bất
mãn cảnh bạo quyền đàn áp dân chúng, La Boétie sáng tác Discours de la
servitude volontaire năm 1549, lúc ông 18 tuổi. Đây chỉ là một bản thảo viết
tay phổ biến hạn chế cho thân hữu để tham khảo và không có dự định ấn hành. Là
một trong những độc giả, Montaigne tỏ ra càng khâm phục La Boétie hơn.
Năm
1570 Montaigne đem tất cả các trước tác của La Boétie lên Paris để tìm cách ấn
hành, thoạt đầu là các dịch phẩm triết học tiếng Hy lạp và các thi phẩm La ngữ.
Montaigne không muốn phổ biến Discours de la servitude volontaire, vì cả
hai, La Boétie và Montaigne, đều có khuynh hướng trung thành với hoàng gia.
Nhưng
tác phẩm lại lọt vào tay giới đấu tranh của Tin Lành giáo và được ấn hành lần đầu
không toàn bộ và nặc danh qua tựa đề Reveille-Matin des Francois,
do Nicholas Barnaud và Theodore Beza đồng biên tập vào năm
1574. Simon Goulard, một giáo sĩ Tin Lành tại Genève, phát hiện được và in
lại lần thứ nhì toàn bộ với tên tác giả vào năm 1577. Cả hai lần in đều không
có sự đồng thuận của Montaigne, vì ông không muốn châm thêm dầu vào ngọn lửa đấu
tranh của Tin Lành giáo đang sôi sục.
Đến
giữa thế kỷ XVII, tác phẩm bị hoàn toàn chìm vào quên lãng. Vào thời kỳ Khái
Sáng, tác phẩm được hồi sinh và in thành một phụ đính trong tác phẩm Essais của Montaigne,
nhưng cũng không gây được tiếng vang.
Trong
thời kỳ Cách mạng Pháp tác phẩm trở nên cực kỳ sáng giá, được giới đấu tranh in
lại nhiều lần và phổ biến trong dân chúng để gây tác động khích lệ. Nổi tiếng
nhất là ấn bản có lời giới thiệu đấy sinh động của Abbé de
Lanemais, một nhà truyền giáo cực đoan. Về sau, tác phẩm trở thành một tài
liệu tham khảo cho nhiều tác giả và các phong trào đấu tranh khác.
Hiện
nay, tác phẩm được dịch ra nhiểu thứ tiếng trên thế giới và trở thành một danh
tác cổ điển về lý thuyết chính trị học và chiến lược hiện đại trong các phong
trào đấu tranh bất bạo động.
Nội dung
Nhờ đàn áp mà chế độ độc tài sống còn, nhưng vì cũng có phần của
nạn nhân tiếp tay, nên tình cảnh áp bức lại càng trầm trọng hơn. Thay vì đoàn kết
đấu tranh, đa số dân chúng lại cùng nhau dốc lòng tự nguyện làm nô lệ lo xây dựng
cho chế độ. Nếu có ý thức phản tỉnh về tự do, bình đẳng, trách nhiệm với chính
thân phận mình và kiên quyết không còn tuân phục bạo quyền nữa, thì người dân sẽ
thoát đời nô lệ và tìm lại được tự do.
Bố cục
Con
người khi sinh ra đều được bình đẳng và tự do. Chế độ độc tài dù không vĩnh cữu,
nhưng sau khi thành hình, đã là một bất hạnh cho người dân, vì dù muốn hay
không, họ phải đánh mất quyền tự do nguyên thủy. Nhưng có một nghịch lý và
cũng là một sự thật trong lịch sử xã hội: con nguời muốn từ bỏ các quyền tự
do này để tình nguyện phục vụ cho bạo chúa.
Từ
đâu mà bất hạnh lại xãy đến, tại sao con người lại biến thái và xã hội bị phân
hoá, đó là những vấn đề mà La Boétie quan tâm. Theo ông, có hai vấn đề cần
giải thích là tại sao con nguời lại chịu tử bỏ tự do, tự nguyện làm nô lệ cho
chế độ và làm sao tìm lại tự do.
Tình cảnh áp bức
Khởi
đầu, La Boétie biểu lộ lòng thương cảm nguời dân sống trong chế độ độc tài
mà họ gánh chịu; ai cũng thấy được đó là do lỗi của bạo chúa. Mục đích
chính của bạo chúa là nắm quyền và thủ lợi. Họ muốn quyền càng cao, lợi
càng nhiều càng tốt và không nghĩ tới dân. Ông phẫn nộ gọi bạo chúa là kẻ thù của
nhân dân vì chỉ lo cướp tài sản của dân nhiều lần với nhiều hình thức khác
nhau. Cụ thể là họ cướp ruộng đất, cắp tài sản và cướp nhà cửa và đồ đạt của
dân. Các loại thuế là gánh nặng cho người dân và thu thuế là một lọại cướp thô
tục nhất.
La
Boétie khinh bỉ bạo chúa khi gọi họ là "anh sống mà không có gì là của
anh“, "một nửa tài sản là của anh, một nửa gia đình là của anh, một nửa cuộc
sống là của anh, nhưng đó là tất cả các thiệt hại, những bất hạnh và đổ
nát.“ Ông lên án bạo chúa là chìm đắm trong trụy lạc, không kể đến đạo đức và
dân quyền, lo mê say hưởng thụ giàu sang và quyền lực.
Quan trọng hơn theo tác giả là vì bạo
chúa có lực lượng cảnh sát và quân đội để bảo vệ chế độ. Nhờ thế mà bạo chuá
có mắt thấy, tay nghe để theo dõi và bàn tay để tấn công dân chúng. Bạo
chúa đe dọa người dân theo hai cách. Một là, sử dụng bạo lực trong đời
sống hàng ngày để duy trì chế độ. Hai là, trong chiến tranh dân còn
khổ hơn vì phải lo phục vụ cho bạo chúa để làm thoả mãn tham vọng chinh phục
hoặc trả thù. Với hình ảnh tàn khốc của chiến tranh, bạo chúa đã trở
thành tên đồ tể. Trong mọi hoàn cảnh, dân chúng chỉ là nạn nhân. Tình cảnh đáng
thương của người dân trong vòng tay bạo chúa là không có lối thoát. Cách cuối
cùng của người dân là hãy sử dụng cái chết là hết.
Nhưng
bất hạnh nhất là dân chúng không còn trí nhớ, đem tinh thần phục vụ cho chế
độ thay cho yêu chuộng tự do cho chính mình. La Boétie xem tình trạng chuyển
tiếp này là không tất yếu. Sự phân chia hai thành phần thống trị và bị trị
trong xã hội là một tai nạn tình cờ.
Quy kết vô cảm
Sự
sụp đổ của xã hội làm biến đổi con người sang một tình trạng nô lệ tư nguyện,
một điểm tương phản với tình trạng tự nhiên: một con ngưòi mới nãy
sinh, không phải là con nguời đúng nghĩa trong xã hội nữa, họ chỉ thói quen
tùng phục. Hai lý do chính của tinh thần nô lệ là họ quên đi ý nghĩa của tự do
cá nhân và có thói quen sống là chỉ biết tuân lệnh trong một xã hội chuyên chế.
Con người sinh ra trong kiếp đời nô lệ và được hưởng một nền giáo dục là
luôn luôn mang tính tùng phục và xem đó như một giá trị cao cả.
Dù
thương cảm tình cảnh nguời dân bất hạnh, nhưng La Boétie cực
kỳ gay gắt để kết án họ là vô trách nhiệm với chính thân phận mình. Ông tức giận
khi cho họ là điên vì họ không thể hiểu được hoàn cảnh của chính mình và
chịu cam phận làm nô lệ. Tại sao họ không phản ứng, chịu đựng trước những
tai họa mà lại để cho tình trạng tiếp tục trầm trọng hơn? Ông mỉa mai về tình
trạng đối nghịch giữa "tuyệt vời hạnh phúc" và điều kiện tiêu cực là
"người ta để cho anh có một nửa và còn lại nữa là anh phải dũng
cảm để chết, đó là một chuyện mà anh không thể từ chối.“
Theo ông, chính tinh thần nô lệ tự nguyện của
người dân giúp cho bạo chúa nắm quyền và là điều kiện khởi đầu cho việc sử dụng
bạo lực để duy trì quyền lực. Việc thuần phục của người dân là nghịch lý, họ
tự làm suy yếu mình, nhờ thế họ làm cho bạo quyền mạnh hơn. Không phải
bạo chúa tướt đoạt quyền tự do mà chính họ không sử dụng quyền tự do của mình.
Họ đồng thuận mà thậm chí còn hy sinh cả mạng sống cá nhân để cứu
bạo chúa.
Ai
cũng nghĩ là bạo quyền đàn áp dân chúng, khiến họ phải chịu đựng và thành
bất lực. La Boétie nghĩ ngược lạ. Ông cho là người dân không có trách
nhiệm với chính mình, tự tạo ra kẻ thủ cho chính mình, kẻ nội
thù vì không lo chống lại với kẻ ngoại thù là chế độ. Bạo chúa duy trì chế
độ khi có người dân cho phép. Họ đặt mình trong tình trạng lệ thuộc với
các quan chức, có nghĩa là, họ đồng ý làm tôi tớ trung thành và là phương
tiện cho chế độ. Ông nghiêm khắc cho là dân chúng là tay, mắt,
bàn chân để xây dựng cho bạo quyền. Ông kết tội họ là tên chứa chấp người gian,
đồng lõa với kẻ giết người và kẻ phản bội chính mình.
Mối
tương tác giữa các bạo chúa và người dân là một nghịch lý khác mà
Boétie chứng minh bằng các phàn đề. Ông cáo buộc dân chúng
với một hình thức truy vấn: “Nếu không phải là anh " và "chuyện
của chính anh“, thì là của ai khi so với hành vi của bạo chúa
Nhưng
bạo chúa rất khôn ngoan, không những khai thác tinh thần tùng phục, mà còn biết
cách làm suy yếu tiềm năng đấu tranh của dân chúng. Có nhiều cách mà
La Boétie gọi là liều thuốc ru ngủ dân chúng. Cụ thể là để đền bù cho việc mất quyền tự do, bạo
chúa tạo nhiều trò vui chơi tiêu khiển như kịch nghệ và thể thao. Họ ban cấp
huy chương là hình thứcđ em bả vinh hoa lừa nạn nhân. Họ ban phát bổng lộc, mà
người thụ hưởngkhông biết là trích từ công qũy, nghĩa là tiền thuế của dân.
Họ còn dùng những diễn từ
hoa mỹ nói lên tinh thần phục vụ công ích, mà thực ra là phục vụ cho họ. Họ
sử dụng mê tín dị đoan thay cho niềm tin tôn giáo, nhẳm gây cảm tưởng lo sợ tội
phạm thánh cho các tín đồ. Qua các chiến tranh tôn giáo, La Boétie phân biệt thần
quyền và thế quyền. Theo tác giả, quyền
lực của chế độ không đến từ thần quyền mà là do tinh thần nô lệ tự nguyện
của con nguời.
Ông
cũng nhận ra rằng với những hung đồ ngụy tạo, bày trò vui thú thoáng
qua và mê tín, bạo quyền ru ngủ được giới bình dân. Ngược lại, giới
trí thức, dù có ý thức vấn đề, nhưng họ lại không có đủ khả năng và bản lĩnh để
thay đổi tình thế.
Tỉnh thức để thoát đời nô
lệ
Làm
sao cho người dân thoát khỏi chế độ nô lệ và tìm lại tự do là luận điểm cuối
cùng và quan trọng nhất của Boétie. Ông muốn là làm sao cho mọi người nhìn
ra vấn đề. Yêu cầu đầu tiên của tác giả là người dân nên mở mắt và mở lòng
nhận ra thực tế, đặc biệt là với người có trình độ giáo dục,
họ hy vọng là họ sẽ không còn điên và nên suy nghĩ nhiều hơn về thân phận mình.
Việc đầu tiên và thích hợp nhất để mọi
người có được ý thức phản tỉnh là phải phá vỡ các huyền thoại về chế độ, bạo
chúa không còn vĩ đại, họ cũng là con nguời giống mọi người, cũng cô
đơn và sợ hải, nhất là khi đối diện với đa số dân chúng. Bạo chúa có sức mạnh
để duy trì chế độ là do dân chúng tiếp tay; nếu không thì sụp đổ là tất
yếu.
La
Boétie lạc quan khi kết luận là sự sụp đổ của bạo quyền là khả thi,
nhất là khi dân chúng bắt đầu tỉnh thức không còn tùng phục nữa. Đó là khả năng
tự soi sáng và tự quyết định vận mệnh chính trị của toàn dân. Một
câu nói của La Boétie trở thành thông điệp bất hủ là:
"Soyez
résolus de ne servir plus, et vous voilà libre": "Hãy kiên quyết
không còn tùng phục nửa, anh sẽ có tự do".
Kết luận
Với
một văn phong trong sáng, một bố cục mạch lạc và một kiến thức uyên bác, La
Boétie đã để lại cho hậu thế một tuyệt tác về lý thuyết chính trị học, khi ông
khởi xướng tinh thần bất phục tùng dân sự mà về sau Henry David Thoreau và
Mahatha Gandhi kế tục.
Độc
giả người Việt sẽ ngạc nhiên về La Boétie, với tuổi đời 18, là một trí thức của
Pháp trong thời Lê Trang Tông của Việt Nam đã mang đến một cơ sở tư duy để so
chiếu với thực trạng của Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Dù
lịch sử sang trang, nhưng thế hệ tham chiến luôn tự hào và lập luận là từ ngày
có Đảng đã một lòng một dạ đi theo Đảng. Đến nay, với thời gian lắng đọng, thế
hệ hậu chiến sinh ra và trưởng thành trong vòng tay yêu thương của Đảng càng sống
lạc quan hơn, tận hưởng hạnh phúc của dân tộc, nhất là đồng tình cho con cháu của
lãnh đạo Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước.
Bao
thế hệ không muốn nhận ra sự thật lịch sử của Đảng mà họ thiết tha góp phần.
Nhân danh giành độc lập cho dân tộc, Đảng chống Pháp, nhưng để cướp chính quyền;
Đảng đánh Mỹ là đem dân chết thay cho Liên Xô và Trung Quốc; Đảng xâm lăng
Kampuchia để gây thêm thù hận; Đảng xây dựng XHCN để làm cho xuống hố cả nước,
Đảng tiến hành Đổi Mới là để cứu Đảng; Đảng phải dâng đất, dâng biển cho Tàu để
có hỗ trợ chính trị; và hiện nay, Đảng phải tìm cách thân Mỹ để mưu sinh thoát
hiểm và mưu tìm chính danh Đảng thay đổi nội dung các bản Hiến Pháp không
hề phản ảnh được thẩm quyền lập hiến của toàn dân, mà chỉ là sao chép lại Nghị
quyết của Đảng.
La
Boéti phân biệt cho người Việt thấy là có hai phạm vi khác nhau, đó là quyền tự
do nguyên thuỷ và lòng mong muốn của con người. Nhưng lòng mong muốn cần phải
phân biệt rõ hơn trong thực tế, đó là muốn sống đời tự do đích thực hay sống đời
nô lệ trong chế độ độc tài. Tĩnh thức thân phận là vấn đề kiến thức; tìm lại tự
do đã mất cúa chính mình nhằm xác định ý muốn để hành động là vấn đề quyết tâm.
Bất phục tùng của người
dân không phải là sử dụng bạo lực mà là không còn hỗ trợ tích cực cho chính quyền
cai trị. Nếu tiếp tục sống vô cảm và chờ đợi hạnh phúc giả tạo do bạo
quyền bố thí, thì người dân sẽ không thể thoát đời nô lệ. Vấn đề là sự chọn lựa.
Nhưng
đã đến lúc người Việt phải phản tỉnh là: Đảng tạo vấn đề, toàn dân sẽ đem
lại giải pháp và quyền dân tộc tự quyết là phương tiện.
Người
Việt nghĩ gì về lý giải của La Boétie qua Discours de la servitude
volontaire và làm gì với thông điệp: "Soyez résolus de ne servir
plus, et vous voilà libre", đó là hai chủ đề không thuộc
khuôn khổ của bài giới thiệu sách này.
No comments:
Post a Comment