02.04.2015
Phát biểu trong một hội nghị quốc
gia vào đầu năm 2015, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt
Nam, tuyên bố: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ
trẻ con đến người già [đều] có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là
ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc.”
Chuyện tại sao ông “lo lắng” và
cho đó là một sự “nguy hiểm cho dân tộc” chúng ta sẽ bàn sau. Ở đây tôi chỉ chú
ý đến một hiện tượng được chính Phùng Quang Thanh ghi nhận và thừa nhận: sự căm
ghét Trung Quốc là một “xu thế” rất phổ biến, “từ trẻ con đến người già” tại Việt
Nam.
Thật ra, “xu thế” ấy không phải
chỉ có ở Việt Nam. Chỉ cần đọc qua các bản tin trên báo chí khắp nơi, chúng ta
thấy ngay một hiện tượng: dân chúng ở Tây phương cũng khá khinh ghét người
Trung Quốc. Nhóm từ “người Trung Quốc xấu xí”, trước, chỉ do những người Trung
Quốc tự nói về chính họ qua những cái nhìn mang tính chất tự phê phán (tiêu biểu
và nổi tiếng nhất là Bá Dương, 1920-2008, người Đài Loan, với cuốn sách mang
nhan đề “Người Trung Quốc xấu xí” được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng
Việt). Gần đây, cách gọi “người Trung Quốc xấu xí” ấy tràn lan trên báo chí. Ở
đây không phải là chuyện kỳ thị. Đó chỉ là cảm tưởng chung khi người ta nhìn thấy
cách hành xử của người Trung Quốc du lịch ở nước họ. Trên báo chí đầy dẫy những
hiện tượng trái tai gai mắt của người Trung Quốc, từ trên máy bay đến trên đường
phố. Trên máy bay, có người tạt cả ly nước nóng lên mặt tiếp viên chỉ vì một sự
bất bình nho nhỏ nào đó; có người đòi mở cửa cấp cứu trên chiếc máy bay đang
bay trên không để cho “có không khí”; có người cho con ỉa ngay trên lối đi; có
người doạ cho nổ máy bay vì không đổi được chỗ ngồi, v.v… Trên đường phố cũng vậy.
Ở đâu có người Trung Quốc, ở đó có cảnh chen lấn, xô đẩy; cảnh khạc nhổ và vất
rác bừa bãi; cảnh gây gổ, tranh giành, ầm ĩ; cảnh trố mắt nhìn vào sự riêng tư
của người khác. Nhiều người cho người Trung Quốc là những du khách tệ hại nhất
thế giới (the world’s worst travellers).
Ở Việt Nam, “xu thế” ghét người
Trung Quốc cũng không mới mẻ gì. Ngày xưa, cha ông chúng ta cũng rất ghét người
Trung Quốc. Trong Bình Ngô đại cáo viết thay cho Lê Lợi, Nguyễn Trãi xem Trung
Quốc như một “thế thù”, tức kẻ thù truyền kiếp, từ đời này sang đời khác. Gần
đây, sau cuộc xâm lược của Trung Quốc qua biên giới phía Bắc Việt Nam vào năm
1979, giới lãnh đạo Việt Nam cũng tuyên bố Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp và
lâu dài của Việt Nam. Hiện nay, sự căm ghét người Trung Quốc còn phổ biến và sâu
rộng hơn hẳn các thế hệ hay các thế kỷ trước. Người Việt trong nước ghét; người
Việt ở hải ngoại cũng ghét. Ngày xưa, cha ông chúng ta có thể vừa ghét người
Trung Quốc nhưng lại vừa ngưỡng mộ văn hóa Trung Quốc; bây giờ, phần lớn vừa
ghét âm mưu xâm lấn của Trung Quốc vừa coi thường cả văn hóa Trung Quốc. Nhìn
vào Trung Quốc, ở bất cứ khía cạnh nào, người ta cũng đều thấy những sự xấu xa
và đầy đe dọa.
Những sự ghét bỏ ấy khiến tham
vọng trở thành siêu cường quốc của Trung Quốc gặp khó khăn và thử thách. Nói
chung, để trở thành một siêu cường quốc, người ta cần hai điều kiện chính: quyền
lực cứng và quyền lực mềm. Quyền lực cứng thể hiện chủ yếu trên hai lãnh vực:
kinh tế và quân sự. Quyền lực mềm thể hiện chủ yếu ở lãnh vực văn hóa và xã hội.
Trung Quốc, với tham vọng trở thành một siêu cường quốc ít nhất ở châu Á, tập
trung phát triển trên tất cả các lãnh vực ấy. Riêng về văn hóa và xã hội, họ muốn
tạo sự thông cảm và ngưỡng mộ của thế giới với nền văn hóa lâu đời và đẹp đẽ của
họ qua việc phát triển các Viện Khổng Tử ở khắp nơi trên thế giới. Không biết
các hoạt động của các Viện Khổng Tử ấy có hiệu quả gì hay không nhưng chỉ thấy ở
đâu người ta cũng căm ghét Trung Quốc.
Riêng ở Việt Nam, cho đến nay,
có vô số bằng chứng cho thấy các chiến dịch vận động cho quyền lực mềm của
Trung Quốc đã thất bại thảm hại. Ở đâu dân chúng cũng ghét Trung Quốc. Làm ăn với
Trung Quốc, ừ, vẫn làm; mua hàng Trung Quốc, ừ, thì vẫn mua, nhưng ghét Trung
Quốc thì vẫn cứ ghét. Sự căm ghét ấy lớn đến nổi bao nhiêu chiến dịch tuyên
truyền cho cái gọi là “4 tốt” và “16 chữ vàng” của chính quyền Việt Nam đều thất
bại, theo lời thừa nhận của Phùng Quang Thanh dẫn ở trên.
Tuy nhiên, sự căm ghét ấy có đủ
để bảo vệ độc lập và chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông hay không?
Tôi sợ là không.
Lý do thứ nhất là chính phủ
hoàn toàn không biết tận dụng sự căm ghét ấy để biến nó thành một vũ khí trong
trận tuyến chống lại Trung Quốc. Ở đây, chúng ta lại thấy một nghịch lý: chính
phủ và đảng Cộng sản Việt Nam lúc nào cũng cho họ là đại diện của nhân dân, tôn
trọng ý nguyện của nhân dân, nhưng trong trường hợp này, mặc dù họ biết nhân
dân rất căm ghét Trung Quốc, họ lại xem đó là điều đáng lo lắng và tìm mọi cách
để ngăn chận và trấn áp những biểu hiện của những sự căm ghét ấy.
Thứ hai, bản thân người dân vừa
căm ghét nhưng vừa bất lực và bế tắc. Ai cũng ghét Trung Quốc và ai cũng biết
Trung Quốc đang mưu toan xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Nhưng rồi,
tất cả đều thở dài, than: “Nhưng biết làm sao bây giờ?” Người ta cho Trung Quốc
quá mạnh và Việt Nam quá yếu: tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Biết thế, nhưng thay vì tiếp tục tranh đấu, người ta lại chọn biện pháp buông
xuôi, để mặc chính phủ và đảng Cộng sản lo liệu.
Sự kết hợp giữa căm ghét và bất
lực ấy khiến người ta hài lòng với những lời than thở hay chửi bới vu vơ.
Không có một tên lính Trung Quốc
nào chết vì những lời than thở hay chửi bới vu vơ như thế cả.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân.
Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản
ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment