Phạm Đình Nhiên
- Boxitvn.net
25-4-2015
Phần I – Dân Chủ – Cộng Hòa:
Hai
tiếng dân chủ có nghĩa rất rõ ràng và đơn giản: Người dân làm
chủ mình và làm chủ đất nước của mình. Ý niệm này bắt nguồn từ sự tham dự của
người dân vào việc cai trị tại các quốc gia đô thị cổ Hy Lạp cách nay hơn 2.500
năm và hai chữ dân chủ cũng do tiếng Hy Lạp demos (dân
chúng) và kratos (cai trị) tạo thành. Hai chữ demos
kratos, châu Âu biến thành democracy và chúng ta dịch là dân
chủ.
Về
hình thức, Dân Chủ là một thể chế để thể hiện chế độ Cộng Hòa, một chế độ chủ
quyền thuộc về toàn dân. Chế độ này đối nghịch với chế độ quân chủ xưa kia,
trong đó ông vua đưọc phép (xức dầu theo đạo Do Thái) của Trời – Chúa Trời –
cai trị dân chúng, còn ở Trung Hoa thì vua là con trời (Thiên Tử) được sai xuống
cai trị muôn dân.
Vì
vậy ông vua có quyền tối cao. Tất cả tài sản như rừng núí, sông ngòi, đất đai
và dân chúng thuộc quyền sở hữu của vua, vua ban cho ai người ấy được; vua cho
sống thì sống, vua bắt ai chết thì phải chết: “quân sử thần tử, thần bất tử bất
trung” (vua bảo chết, không chết là bất trung).
Theo
nghĩa trên thì bất cứ chế độ nào mà người dân không có quyền quyết định vận mệnh
của mình và của quốc gia đều không phải là chế độ Cộng Hòa và bất cứ chính quyền
nào dưới quyền cai trị độc đoán của một người như Hitler ở Đức, Franco ở Tây
Ban Nha; của một đảng như ở Liên Xô xưa kia, Trung Quốc hiện nay hay của một tập
đoàn như tập đoàn quân phiệt ở Myanmar, ở Argentina đều là những chế độ độc
tài: độc tài cá nhân, độc tài đảng trị, độc tài quân phiệt.
Để
đánh lừa người dân và quốc tế, những chính quyền càng độc tài thì càng rêu rao
là mình dân chủ. Những nước Cộng Hòa Chile thời Pinochet, Cộng Hoà Cuba, Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Hoà Triều Tiên … đều là những chế độ độc tài, rất
độc tài.
Pinochet
thủ tiêu hàng ngàn người lên tiếng đòi hỏi tự do; ở Trung Quốc người dân không
được quyền ứng cử, những tiếng nói đối lập bị đàn áp quyết liệt: vụ biểu tình ở
Thiên An Môn gần 3.000 người bị giết chết. Tất cả ứng cử viên đều phải được Đảng
Cộng sản Trung Quốc chọn lựa rồi đưa ra cho dân bầu, quan trọng nhất là những kẻ
nắm quyền từ xã thôn tới quận, huyện, tỉnh, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội,
thủ tướng… đều là những đảng viên cộng sản kế tiếp nhau cai trị dân chúng.
Cộng
Hoà Cuba hay Cộng Hoà Triều Tiên là gia sản của hai vương triều nhà họ Castro
(Fidel Castro truyền cho Raúl Castro) và họ Kim (Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật,
Kim Chính Ân – Kim Il Sung, Kim Jong Il, Kim Jong Un).
Những
chính quyền độc tài như vậy làm gì có tiếng nói của Dân Chủ, trong khi điều cốt
yếu của chế độ Cộng Hoà là Dân Chủ. Nói cách khác, Dân Chủ là thể chế thực hiện
chế độ Cộng Hòa, tức là thực hiện QUYỀN LÀM CHỦ của người dân:
§
Người
dân có quyền tự do hội họp để thảo luận những vấn đề liên quan tới công việc và
tổ chức các cơ quan của làng xã, quận, huyện, tỉnh, quốc gia như giáo dục, giao
thông (xây trường học, xây cầu, mở thêm đường) hay việc đóng thuế, đóng thuế để
tiêu những gì, tổ chức chính quyền như thế nào…
§
Người
dân có quyền tự do phát biểu ý kiến để phản đối những sự bất công trong xã hội,
sự lạm quyền của cảnh sát, sự sai lầm, sự vô tài bất lực, sự tham nhũng của những
người cai trị dù đó là xã trưởng, quận trưởng, tỉnh trưởng hay tổng thống.
§
Người
dân có quyền đi bầu để loại bỏ những người đó ra khỏi chính quyền và thay vào
đó bằng những người trong sạch, có tài, biết tôn trọng người dân…
§
Người
dân có quyền lên tiếng tranh luận trong hội họp hay đăng trên báo chí phản bác
ý kiến, chính sách của Quốc hội, của Tổng thống mà chính quyền không có quyền bắt
bớ hay trả thù.
Tóm
lại, nếu Dân Chủ là điều cốt yếu của chế độ Cộng Hòa thì nhân phẩm, quyền tự
do, quyền bình đẳng là điều cốt yếu của thể chế Dân Chủ. Chỉ có trong chế độ Cộng
Hoà Dân Chủ nhân phẩm cao quý của con người mới được tôn trọng và bảo vệ; chỉ
có trong chế độ Cộng Hoà Dân Chủ con người mới có bình đẳng, không bị kỳ thị,
đàn áp, không phải cúi đầu trước cường quyền, trước chó săn, dùi cui, nhà tù và
cũng chỉ có trong chế độ Cộng Hòa Dân Chủ con người mới có quyền sống, có quyền
tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do nghề nghiệp, tự do lên tiếng, tự do cư trú
(không có chế độ hộ khẩu), tự do tôn giáo… không cần phải xin xỏ, trông chờ ai
ban phát.
Tất
cả những chính quyền tự xưng là Dân Chủ hay Cộng Hoà mà trong đó người dân
không có tự do, bị đàn áp, bức bách, chà đạp, xúc phạm nhân phẩm thì những
chính quyền ấy, dù danh xưng là gì, đều là chính quyền độc tài.
P.
Đ. N.
Tác
giả gửi BVN.
-----------------
Phạm Đình Nhiên
- Boxitvn.net
26-4-2015
Phần II – Tình trạng Dân Chủ ở Việt Nam:
Từ
70 năm nay, các chính quyền ở Việt Nam luôn lớn tiếng tự nhận là chế độ Dân Chủ
Cộng Hòa nhưng hai tiếng Dân Chủ, Tự Do vẫn còn là một huyền thoại, một cái gì
xa vời, chưa bao giờ hiện thực. Chính quyền thì dùng nhãn Dân Chủ để lừa gạt,
dân chúng thì cam phận.
Có
lẽ vì vậy mà bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một học giả ở Hoa Kỳ đưa ra nhận xét đượm vẻ
bi quan rằng Âu, Mỹ người ta có được một nền Dân Chủ tốt đẹp vì “Âu Mỹ vào tự
do, dân chủ với lịch sử dân quyền ở Hellen (Hy Lạp), luật pháp của Roma (La
Mã), với lời kêu gọi gạt bỏ quá khứ, với những tư tưởng của thế kỷ Quang Minh
(Enlightenment, Lumière), và với khoa học bắt đầu với những cuộc cách mạng của
Copernik, Galiléo. Trung Hoa và Việt Nam thiếu sự sửa soạn tri thức.” (Trần Ngọc
Ninh, Ước vọng Duy Tân, Viện Việt Học xuất bản, tháng 11/2012,
trang 29). Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà hoạt động dân chủ trong nước, trong cuộc
phỏng vấn của đài BBC ngày 2.03.2013 cũng đưa ra ý kiến tương tự.
Nếu
nói rằng cần phải có sửa soạn đầy đủ tri thức mới có tự do, dân chủ thì không
bao giờ người dân ở những nước độc tài chuyên chế (chuyên chính) đạt được vì
luôn luôn những chính phủ độc tài, dù là cá nhân hay đảng, tập đoàn cầm quyền
không những không cho có sự sửa soạn mà còn cấm đoán, giết chóc, bắt bớ những
người có tư tưởng hay vận động cho Tự Do Dân Chủ; ngược lại, họ ru ngủ, hủ hoá
dân chúng bằng rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, gây chia rẽ, khuyến khích sự lừa
lọc, dối trá… làm dân chúng sa đọa, bạc nhược, làm xã hội băng hoại để dễ bề
cai trị. Chính sách này thực dân Pháp đã đem áp dụng ở nước ta thời Pháp thuộc
và nhà cách mạng Phan Bội Châu nêu rõ trong cuốn Cao đẳng quốc dân viết
cách nay gần 100 năm.
Nhìn
sang châu Âu như Nga, Đức, Tây Ban Nha, nhất là Hy Lạp và nước Ý (La Mã xưa),
thì sự hình thành chính thể Dân Chủ không sớm sủa gì, nhất là nước Nga dù chế độ
độc tài chuyên chính (chuyên chế) Cộng sản sụp đổ hai mươi mấy năm rồi mà người
dân vẫn chưa được hưởng đầy đủ tự do, dân chủ. Hiện tại dưới sự cai trị của
Putin, Hiến pháp Nga bị sửa đổi để Putin lên cầm quyền nhiệm kỳ 3, những người
đối lập bị đàn áp, bỏ tù, thậm chí bị giết như cựu thiếu tá Litvinenko bị đầu độc
bằng phóng xạ ở Anh hay nữ ký giả Anna Politkovskaia bị ám sát ngay tại nước
Nga.
Nước
Đức, trước khi đầu hàng Đồng Minh ngày 8.5.1945 nằm dưới chế độ phát xít của
Hitler và chỉ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ độc
tài đảng trị tại Đông Đức ngày 9/11/1989, thì cả nước mới có tự do, dân chủ.
Tây
Ban Nha, sau khi nhà độc tài là tướng Francisco Franco chết năm 1978 mới có Hiến
pháp chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến.
Hy
Lạp, cái nôi của nền văn minh, dân chủ phương Tây và thế giới thì chế độ quân
chủ chính thức bị giải tán năm 1975, sau khi chế độ độc tài của “các Đại tá” chấm
dứt ngày 23.7.1974.
Trái
lại ở châu Á, Nhật và Ấn, Phillippines đã thiết lập được nền Dân Chủ sớm hơn cả
Nga, Hung, Tiệp, Ba Lan, Tây ban Nha, Hy Lạp…
Nhật
có truyền thống quân chủ rất lâu đời. Nhật hoàng được người dân sùng bái tới mức
độ cuồng tín thế mà sau khi bị hai trái bom nguyên tử tàn phá phải đầu hàng vô
điều kiện 15.8.1945 thì trở thành một nước Dân Chủ. Hiến pháp hiện giờ do người
Mỹ tới chiếm đóng ban hành, dân Nhật không có quyền soạn thảo, biểu quyết.
Nhưng kể từ năm 1945 đến nay Nhật có một nền Dân Chủ vững vàng, tiến bộ nhất
châu Á, người dân được bảo đảm về nhân quyền, quyền bình đẳng và các quyền tự
do sinh sống, hội họp, tự do ngôn luận, báo chí, tự do tôn giáo…
Ấn
là trường hợp đặc biệt. Đấu tranh dưới sự lãnh đạo của thánh Gandhi và luật sư
Nerhu, Ấn được Anh trao trả độc lập năm 1947 với tình trạng đất nước bị phân
hoá về tôn giáo, đẳng cấp, địa phương, ngôn ngữ; dân trí thấp kém, hơn 90% mù
chữ, mê tín dị đoan, nghèo đói; công kỹ nghệ không có, nông nghiệp lạc hậu, đất
ít người đông thế mà ông Nerhu và người Ấn đã vượt qua các trở ngại để thiết lập
nền Dân Chủ vững vàng từ đó đến nay.
Như
vậy Việt Nam có cần một giai đoạn chờ đợi để sửa soạn tri thức trong một, hai
thế kỷ như châu Âu thế kỷ thứ 17, 18 (thời kỳ kỷ nguyên Ánh Sáng hay còn gọi là
kỷ nguyên Lý Trí: Age of Enlightenment, Age of Reason) để có Tự Do Dân Chủ?
Qua
những trình bày trên, yếu tố quyết định cho một nền Dân Chủ chưa hẳn do trình độ
dân trí hay có lịch sử (truyền thống) Dân Chủ thừa hưởng của La, Hy. Trường hợp
Đức, Ý, Tây Ban Nha, Nga và nhất là Hy Lạp tri thức, lịch sử Dân Chủ có đủ mà vẫn
bị độc tài. Trái lại Ân, Nhật thì lại có nền Dân Chủ sớm và ổn định.
Không
phải chỉ một yếu tố đơn thuần tạo ra nền Dân Chủ mà tùy thuộc vào:
§
Văn
hoá: trình độ dân trí cao, có ý thức và hành xử văn minh, biết dung hoà, tôn trọng
ý kiến người khác.
§
Lịch
sử: đã từng trải qua Dân Chủ (nếu mất sẽ đấu tranh lấy lại).
§
Chính
trị: không bị ảnh hưởng, lệ thuộc vào nước khác.
§
Kinh
tế, xã hội ổn định – không phân hóa, chia rẽ về tôn giáo, địa phương. Và quan
trọng hơn hết là
§
Ý
thức cao về quốc gia, dân tộc: đặt quyền lợi chung của quốc gia lên trên quyền
lợi cá nhân, phe, đảng,tôn giáo.
§
Cuối
cùng và không kém phần quan trọng là người lãnh tụ. Đó là trường hợp của Ấn Độ
và cả nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Anh.
Nưóc
Mỹ sau khi đạo quân 6.000 binh sĩ của Lord Cornwallis đầu hàng tại York Town,
Virginia ngày 19/10/1781 là 13 xứ Độc Lập nhưng với biết bao nhiêu khó khăn,
dân chúng thì tạp chủng, tứ xứ, nghèo đói, bệnh tật. Mười ba “Tiểu Bang” thì lớn
nhỏ khác nhau, kinh tế, nông nghiệp, công nghệ phát triển chênh lệch tạo ra rất
nhiều trở ngại trong việc thành lập một chính phủ chung.
Cuốn The
Challenge of Democrcy Goverment in America của ba Giáo sư Đại học
Kenneth Janda, Jeffrey M. Berry, Jerry Goldman mô tả tình trạng khi ấy ở Philadelphia:
“Già nửa dân chúng sống nghèo khó. Gái điếm và bệnh tật lan tràn”. (“More than
half population existed on edge of poverty. Prostitution and disease were
widespread” – trang 80). Các xứ tranh chấp nhau, họp hành kéo dài làm các đại
biểu chán nản lang thang tới các quán nhậu (tavern) đến nỗi đích thân ông
Washington có lúc phải đi kiếm lôi cổ về họp.
Nếu
không có ông Washington với uy tín và sự cương quyết thì chưa chắc hội nghị Lập
Hiến đã thành công (“Still, if it were not for Washington, some historians
believe, the convention would never have succeeded. His character and authority
kept the convention from flying apart” – sách đã dẫn, trang 80). Và cũng chính
với nhân cách cao quý, với lý tưởng dân chủ nhiệt thành, với sự nghiệp và uy
tín của ông mà bản Hiến Pháp Dân Chủ đầu tiên trên thế giới đã ra đời tại nước
Mỹ.
Cũng
chính bản Hiến pháp không ghi Tổng Thống Hoa Kỳ được đảm nhiệm mấy nhiệm kỳ
nhưng ông chỉ tái ứng cử một lần, tức làm Tổng thổng hai nhiệm kỳ, 8 năm, từ
1789 đến 1797. Thời hạn này được những Tổng thống kế tiếp noi theo và trở thành
tập tục không những của nước Mỹ mà còn được phần lớn các nước Dân Chủ trên thế
giới ghi trong Hiến pháp. (*)
So
với Ấn Độ, dù sao thì dân chúng Mỹ từ châu Âu tới với văn hóa ảnh hưởng của Hy
Lạp, La Mã, trình độ văn minh cao, nhất là những lãnh tụ cách mạng như George
Washington, Thomas Jefferson, John Adams… là những trí thức mang nặng lý tưởng
Dân Chủ do chịu ảnh hưởng của những triết gia John Locke (1632-1704), Francois
M.A. Voltaire (1694-1778), J. J. Rousseau (1712-1778)… của thời kỷ nguyên Ánh
sáng ở châu Âu.
Ấn,
trái lại, ngoài dân trí thấp kém, hơn 90% mù chữ, nghèo khổ, lại bị phân hoá về
địa phương, tôn giáo, ngôn ngữ, đẳng cấp… thế mà dưới sự lãnh đạo của ông Nehru
và đảng Quốc Đại đã trở thành một nước Dân Chủ đầu tiên ở châu Á. Cũng chính
gia đình này chi phối nền chính trị Ấn từ năm 1947 đến nay với ba đời làm Thủ
tướng (Nerhu, con gái là bà Indira Gandhi, cháu là Rajiv Gandhi và cháu dâu
Sonia – vợ góa Rajiv – làm Chủ tịch đảng Quốc Đại) nhưng cả thế giới không ai
nói gia đình Nerhu là độc tài, là gia đình trị.
Cả
gia đình ông để hết tâm trí phục vụ dân tộc Ấn, không tham quyền cố vị, không
tham nhũng, không lợi dụng chức vụ để vơ vét hay buôn bán làm giàu mà trái lại
xả thân cho lý tưởng, cho quốc gia: Nữ Thủ tướng Indira Gandhi bị ám sát chết,
Thủ tướng Rajiv Gandhi cũng bị ám sát chết.
Ấn
Độ có những nhà lãnh đạo siêu việt cả về đạo đức, tư cách, tài năng và tận tụy
hiến dâng.
Ngược
lại, ông Tôn Dật Tiên làm cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 nhưng không xây dựng được
nền Dân Chủ ở Trung Hoa. Sau khi nhà Thanh bị lật đổ thì nước này coi như thuộc
về gia đình nhà vợ Tôn Dật Tiên (**) và các lãnh chúa tung hoành. Đúng hơn, sau
chế độ quân chủ của nhà Thanh là chế độ phong kiến. Cho đến nay người dân lục địa
Trung Hoa vẫn phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị và Đài Loan chỉ có bầu cử
tự do sau khi Tưởng Kinh Quốc – con Tưởng Giới Thạch, cháu dượng Tôn Dật Tiên
chết (Tôn và Tưởng là anh em rể).
Như
vậy thì lãnh đạo (đạo đức, tư cách, tài năng, sự tận trụy) là yếu tố rất quan
trọng trong việc xây dựng nền Dân Chủ của một quốc gia không những ở những nước
kém phát triền như Trung Hoa, Việt Nam, Myanmar, Lybia, Tunisia… mà cả ở những
nước phát triển như Nga, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Đức…
Xét
về lịch sử, nếu tin vào huyền thoại, thì Việt Nam chúng ta có lịch sử Dân Chủ từ
nhiều ngàn năm, có lẽ trước cả Hy Lạp vì Đại Việt sử ký tiền biên soạn
thời nhà Nguyễn Quang Trung ghi rằng vào đời nhà Hùng, vua với dân cùng đi cày
lấy lúa mà ăn, không sưu dịch, thuế khoá, không bắt lính tráng… Đó là thời đại
thái bình, thiên đường nơi hạ giới. Vua không nắm quyền hành, chỉ tượng trưng
cho sự thống nhất dân tộc.
Sự
thật lịch sử là chế độ xã thôn tự trị chỉ bị xóa bỏ sau năm 1954 ở miền Bắc và
sau năm 1975 ở miền Nam.
Trong
chế độ xã thôn tự trị, mỗi làng (xã) tự xếp đặt công việc nội bộ từ bảo vệ an
ninh, ấn định thuế khoá, hội hè, cúng tế đến việc cưới hỏi… qua Hội Đồng Kỳ Mục
là cơ quan lập ra hương ước (tựa như Hiến pháp) riêng cho xã mình, việc thi
hành thì giao cho lý trưởng và phó lý. Vì thế phong tục, luật lệ của làng xã Việt
Nam được người dân tôn trọng còn hơn cả phép tắc của vua chúa:
§
Phép vua thua lệ làng, hay:
§
Quan cần dân không vội,
Quan có cần quan lội quan đi.
Nhưng
qua thời gian, nhất là ảnh hưởng càng ngày càng nặng nề của đạo Nho trải dài từ
các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn rồi cả đến thời Pháp thuộc, thời nào cũng muốn xoá
bỏ chế độ Xã Thôn Tự Trị để nắm hết quyền hành vào tay vua chúa, vào tay chính
quyền thực dân làm cho định chế không thành văn ấy bị suy thoái chỉ còn cái xác
không hồn và biến thành hương đảng, xôi thịt, bộ tộc.
Đó
là cái hoạ của dân tộc trong mấy chục năm nay. Không phải chỉ có các đảng phái
mà các đoàn thể, các tôn giáo cũng phần lớn mắc phải đầu óc hương đảng, phe
phái đó.
Chính
cái đầu óc hương đảng, phe phái làm cho dân tộc Việt Nam, dù đã thống nhất đất
nước 40 năm, nhưng người dân vẫn chưa biết thế nào là Dân Chủ, Tự Do. Dù nền
kinh tế Việt Nam đã đi theo kinh tế tư bản nhưng hầu hết dân chúng vẫn nghèo khổ
vì bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt nhà cửa, ruộng đất, bị kỳ thị trong việc
làm, việc sinh sống, bị đàn áp, tước đoạt hết các quyền tự do và nhân phẩm. Bao
nhiêu quyền lợi, chức tước, cơ hội tốt đều thu về Đảng, đảng viên, những kẻ biết
luồn lọt để làm giàu và nắm quyền cai trị.
P.
Đ. N.
Ghi
chú:
(*)
Sau khi TT thứ 32 là Franklin Delano Rosevelt (1882-1945) giữ 3 nhiệm kỳ từ
1933-1945 thì quốc hội Mỹ tu chính Hiến Pháp chỉ cho TT Mỹ giữ 2 nhiệm kỳ.
(**)
Tống Giáo Nhân, cha vợ của Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch có 6 người con, người
nào cũng là triệu phú thời ấy (tỷ phú bây giờ), tiêu biểu là Tống Tử Văn, luôn
cặp kè bên Tưởng Giới Thạch, từng là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc,
Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Ngoại giao…
Tác
giả gửi BVN.
No comments:
Post a Comment