Kính
thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Kính
thưa các chính phủ dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế.
Cách
đây đúng 40 năm, ngày 30-04-1975, kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa
hai miền Nam - Bắc với bao tang thương đổ vỡ, chôn vùi một chính thể dù còn bất
toàn nhưng vẫn có tự do no ấm, và mở đầu cho việc áp đặt chế độ cộng sản lên
toàn thể đất Việt.
Nhìn
lại những gì mà đảng và nhà cầm quyền Cộng sản đã làm trên đất nước VN từ sau
ngày bi thảm và tang thương đó đến hiện tại, chúng tôi, các tổ chức xã hội dân
sự độc lập trong nước, nhận định rằng đây là 40 năm áp đặt chế độ toàn trị và
40 năm tiêu diệt ý thức con người.
1-
40 năm áp đặt chế độ toàn trị.
Khác
hẳn mọi chế độ độc tài trong lịch sử nhân loại (phát xít, quân phiệt, tài phiệt,
giáo phiệt…) vốn chỉ chú trọng tới một hai khía cạnh của quốc gia xã hội, chế độ
CSVN - như mọi chế độ CS khác - đều mang tính toàn trị, nghĩa là muốn quản lý hết
mọi phương diện của đời sống xã hội lẫn cá nhân, từ vật chất đến tinh thần..
a-
Toàn trị chính trị:
Đảng
CSVN luôn muốn chỉ duy mình cai trị đất nước, không chấp nhận đảng đối lập. Nên
sau khi chiến thắng, họ lập tức giam nhốt nhiều năm mọi quân, cán, chính của chế
độ cũ và đảng viên các đảng phi Cộng sản; tiếp đến tiêu diệt gọn các nhóm phục
quốc bắt đầu xuất hiện rồi còn tạo ra những tổ chức kháng chiến giả hòng gài bẫy
người yêu nước. Để chính danh hóa và hợp pháp hóa quyền cai trị độc hữu của
mình, Hiến pháp 1980, qua điều 4 (và các HP sau đó cũng vậy), khẳng định đảng
CS là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Từ 1975 đến nay, các cá
nhân hay tổ chức đòi đa nguyên đa đảng đều bị trấn áp tàn bạo. Tam quyền phân lập
biến thành tam quyền phân công dưới sự chỉ đạo của đảng. Nhưng để tránh mang tiếng
đàn áp chính trị, CS gọi các “tội chính trị” là tội hình sự, và dùng các điều
79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự để trừng phạt “tội” này.
Hậu
quả: toàn dân (trừ đảng viên) mất hết mọi quyền chính trị và dân sự, không thể
tự chọn người lãnh đạo đất nước, cũng không thể tham gia quốc sự qua việc ứng cử
vào quốc hội hay các hội đồng nhân dân. Bầu khí chính trị ngột ngạt, tù nhân
chính trị đông đảo (theo thống kê mới nhất, hiện còn 105 tù nhân lương tâm), mọi
đảng chính trị bị cấm tiệt. Và sự toàn trị chính trị này cũng là nguyên nhân
gây ra các hậu quả kế tiếp.
b-
Toàn trị kinh tế:
Năm
1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 254 xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành
cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam, phá tan một nền kinh tế
trù phú. Song song, đảng đuổi hàng vạn thị dân vùng chế độ cũ đi kinh tế mới để
cướp đất cướp nhà. Hậu quả là đất nước đứng bên bờ vực thẳm phá sản, khiến năm
1986 đảng phải đề ra chính sách “Đổi mới”, cải cách kinh tế theo phương thức thị
trường. Đời sống vật chất của dân phần nào nên dễ thở, nhưng đảng lại nhân cơ hội
hóa thân thành tư bản đỏ. Nên HP 1992 (đ. 17-18) và Luật đất đai 1993 đưa ra
khái niệm quái đản: “Mọi tài nguyên đất nước đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà
nước thống nhất quản lý”. Quyền tư hữu đất đai bị bãi bỏ; người dân trở thành kẻ
đi thuê của nhà nước, đang khi nhiều đảng viên sở hữu hàng trăm héc-ta ruộng vườn.
CSVN đưa thêm khái niệm quái đản thứ 2: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” (mà cho tới nay chẳng ai có thể hình dung ra sao) với kinh tế
nhà nước làm chủ đạo (HP 1992, đ. 15 và HP 2013, điều 51). Nhiều tổng công ty
và đại tập đoàn được thành lập do đảng viên và thân thuộc nắm giữ nhưng rốt cuộc
chỉ tham nhũng và thua lỗ, làm thiệt hại ngân sách quốc gia hàng vạn thậm chí
hàng triệu tỷ đồng.
Hậu
quả: sau 4 thập niên hòa bình, lợi tức đầu người VN năm 2014 chỉ là 1.028 USD
(so với Singapore cùng khởi điểm thoát ách thuộc địa: 36.897 USD). Năng lực cạnh
tranh của VN hiện đứng chót ASEAN. Mấy trăm ngàn doanh nghiệp tư phá sản. Nhà
nước đi vay để trả lãi nợ công 3 tháng 1 tỷ đô; bình quân đầu người từ già đến
trẻ phải gánh 1.000 đô nợ... Dân oan lên tới hàng triệu người, dở sống dở chết.
Công nhân cũng hàng triệu người bị bóc lột tận xương tủy!
c-
Toàn trị văn hóa:
Ngay
sau khi toàn thắng, CS tịch thu phá hủy mọi sách văn học, nghệ thuật, lịch sử của
VNCH, bỏ tù vô số văn nhân nghệ sĩ. Nhiều nhà văn phản kháng từng phục vụ chế độ
cũng bị đọa đày. Mọi ngành văn học nghệ thuật đều phải đề cao chủ nghĩa, chế độ
và đảng CS.
Toàn
trị văn hóa đặc biệt thực thi trên lãnh vực giáo dục đại chúng và giáo dục học
đường. CS cấm hẳn báo chí tư nhân, nắm hết báo chí các loại, dùng chúng không
như phương tiện thông tin đơn thuần mà như công cụ tuyên truyền nhồi sọ công
chúng, hướng dẫn lèo lái công luận, bắt nhân dân chỉ biết nói, nghĩ và làm theo
mệnh lệnh của đảng. CS cũng tạo ra một đám “trí nô ký sinh” có học vị cao nhưng
chỉ biết gian trá và ngụy biện để luôn bênh vực đảng. Tất cả chỉ nhằm cho nhân
dân thấy đảng là thần công lý và nguồn sự thật. Giáo dục học đường bị chính trị
hóa. Mọi hiệu trưởng đều là đảng viên, triết lý giáo dục là học thuyết Mác Lê
và tư tưởng Hồ, không đào tạo giới trẻ thành công dân tự do và trách nhiệm cho
đất nước nhưng thành thần dân tùng phục đảng và công cụ phục vụ đảng. Toàn trị văn
hóa còn thực hiện qua việc đàn áp tôn giáo bằng bạo lực vũ khí và bạo lực hành
chánh (sách nhiễu, cấm cản, bỏ tù, cướp bóc, phá hoại) nhằm ngăn chận các giáo
hội đưa vào quần chúng giáo lý đầy tính giải thoát và văn hóa đậm chất nhân bản
của mình, ngõ hầu thuyết duy vật vô thần độc tôn thống trị.
Hậu
quả: VN nay không có những tác phẩm văn chương, nghệ thuật giá trị; thành tựu
khoa học (phát minh sáng kiến) hiếm hoi; trình độ học sinh, sinh viên, chuyên
gia thấp kém. Cơ sở giáo dục thiếu thốn và bệ rạc; đạo đức học đường sa sút từ
thầy đến trò, đầy bạo hành và gian dối; đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng: dửng
dưng, bóc lột, giành giật, lừa đảo nhau; hối lộ tham nhũng, mua quan bán chức
là chuyện bình thường; mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, lễ hội nhếch nhác
xuất hiện khắp nơi; người ta tự ru ngủ với những kỷ lục lớn, thành tích ảo.
d-
Toàn trị xã hội:
Quyết
không để lọt thành phần nào, giai tầng nào trong xã hội, CS tạo ra Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam để quy tụ trong đó mọi tổ chức chính trị, kinh tế, dân sự. Mặt trận
này hiện có 44 đoàn thể thành viên. Tất cả dưới sự chỉ đạo của đảng, thành phần
lãnh đạo là người của đảng, nhắm mục đích tối cao: bảo vệ sự cai trị độc đoán
và lâu dài của đảng. Và để việc toàn trị xã hội được bảo đảm, CS biến các lực
lượng trong đất nước thành công cụ: quốc hội, tòa án, chính quyền, công an, tôn
giáo quốc doanh. Quốc hội biến ý đảng thành lòng dân, xây dựng luật để bắt dân
theo ý đảng. Chính quyền dùng nền hành chánh buộc dân tuân hành chính sách đường
lối của đảng. Tòa án cấu kết với công tố và điều tra để khiến công lý luôn đứng
về phía đảng. Công an làm thanh gươm bảo vệ đảng, không để thằng dân nào động tới
quyền lực đảng. Tôn giáo quốc doanh dạy tín đồ luôn vâng lời đảng.
Hậu
quả: toàn thể xã hội sống co ro dưới sự dòm ngó, theo dõi, kiểm soát của tai mắt
đảng (MTTQ), chẳng còn ai dám bày tỏ ý kiến và tình cảm cách chân thật. Dân kiện
người của đảng thì nắm chắc phần thua. Lấy cớ bảo vệ đảng, công an dân phòng đối
xử với dân cách vô luật: sách nhiễu, hành hung, đàn áp. Ba năm nay, hơn 260 người
chết đang khi bị tạm giam. Hành xử bạo lực của công an gieo giữa xã hội thói
quen bạo lực. Người dân hiện chẳng được luật pháp che chở!
2-
40 năm tiêu diệt ý thức con người
Hồ
Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”.
Thực tế, câu đó có nghĩa: “Đảng muốn xây dựng thể chế độc tài toàn trị, phải có
những con người bị tiêu diệt ý thức, lương tâm nhưng lại có vai trò trong xã hội
trước đã”. Và đó là điều CSVN miệt mài thực hiện 40 năm qua.
a-
Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội:
Không
do dân bầu nhưng do đảng cử, họ hầu như luôn "nhất trí cao" trước ý
muốn của đảng. Từ công hàm Phạm Văn Đồng (1958), qua hai hiệp định lãnh thổ và
lãnh hải (1999 và 2000), đến chuyện khai thác bauxite (2007), cuộc xây dựng Hiến
pháp mới (2013)... Quốc hội chẳng hề đứng về phía nhân dân mà tìm hiểu, chất vấn,
phản biện hoặc kiểm soát, theo dõi, nhất nhất để cho Bộ chính trị và Trung ương
đảng mặc sức tung hoành, dù bất lợi cho dân và hiểm nguy cho nước.
b-
Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi nhân viên công quyền:
Được
đảng bộ trung ương hay địa phương đặt để chứ không do dân trao quyền, họ luôn
cư xử như trời con lãnh chúa, hống hách khinh người, lo tích trữ của hơn phục vụ
dân. Bằng chứng: xây cơ ngơi đồ sộ, ăn chặn tiền kẻ nghèo, mặc kệ dân khiếu kiện,
đánh phá cướp bóc các tôn giáo, cho Tàu cộng thuê những vùng đất chiến lược làm
cảng thương mại, khu du lịch, phố thị thôn làng.
c-
Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ dân nơi lực lượng công an:
Tự
coi như lực lượng bảo vệ đảng, thề tuyệt đối trung thành với đảng, công an trở
thành công cụ đàn áp dân oan và giáo oan đòi công lý nhân quyền, "lực lượng
đối thọi" với các nhà dân chủ cất tiếng đòi tự do; kẻ hỗ trợ cho công tố và
thẩm phán trong các phiên tòa chính trị; nỗi kinh hoàng cho ai bị bắt về đồn do
«vi phạm» lớn nhỏ: bị đánh đập dã man, tra tấn đến chết rồi bị vu cáo là “tự tử”!
d-
Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội:
“Trung
với đảng” thay vì “Trung với nước hiếu với dân”, được tự do kinh tài, quân đội
trở thành công cụ của đảng, chỉ lo làm giàu (hàng tướng lãnh đạo nắm vô số công
ty lớn nhỏ), lơ là bổn phận bảo vệ Tổ quốc đồng bào, bỏ mặc ngư dân cho Tàu cộng
sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát, có khi còn tham gia đàn áp dân lành. Dẫu từng
oai hùng chiến đấu năm 1979 hay anh dũng tử trận năm 1988, quân đội xét chung
nay hoàn toàn bị khống chế bởi những tay sai Bắc triều trong Bộ chính trị hay Bộ
quốc phòng.
e-
Tiêu diệt ý thức bảo vệ công lý nơi giới luật sư, công tố, quan tòa:
Công
an điều tra có khi dùng lường gạt hoặc tra tấn để thẩm vấn, công tố (kiểm sát)
với điều tra một lòng một dạ, luật sư nhiều lúc chỉ đứng ra xin khoan hồng, thẩm
phán thường có những «bản án bỏ túi» do trên định sẵn. Điều tra, công tố và
quan tòa ăn hối lộ là chuyện bình thường, nhiều án oan thậm chí án oan tử hình
đã được tuyên nhanh nhưng chậm xét lại. Nói chung, bộ máy tòa án hoạt động vì
tiền hoặc vì đảng.
f-
Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi giới y sĩ:
Bỏ
mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, khám bệnh một cách chớp nhoáng qua loa, đòi
bệnh nhân hối lộ mới săn sóc tốt, cung cấp thuốc quá hạn hay dổm giả, dùng một
kết quả xét nghiệm cho cả trăm bệnh nhân, ăn hoa hồng quá độ khiến giá y dược
lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo
hiểm y tế. Nhiều trường hợp bị người nhà bệnh nhân hành hung do thói vô trách
nhiệm.
g-
Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành:
Lý
luận mình không muốn dính vào chính trị, vô số chức sắc chỉ lo xây dựng điện thờ
nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, ra ngoại quốc quyên thật nhiều tiền, mà hoàn
toàn dửng dưng trước cảnh đồng bào bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị
lâm nguy… Đôi lúc họ chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an
toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp bất công cụ thể (dễ gặp nguy
hiểm).
h-
Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi giới thầy giáo:
Vô
số giáo viên thiếu tư cách, thiếu khả năng (“đứng nhầm lớp”), vô số vụ việc thầy
bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt nữ sinh làm điếm, bỏ mặc trò cho công an
hành hạ; có khi cấm học trò mình biểu tình yêu nước chống Trung Quốc xâm lược.
Rồi còn nạn dạy thêm để làm giàu và cho điểm giả để lấy thành tích. Từ đó, sinh
ra hậu quả khủng khiếp là sự ngây thơ, chân thật, hiền lành nơi học sinh cũng bị
tiêu tùng mất hẳn.
Kết
luận:
Nhìn
lại 40 năm qua, ai cũng thấy chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một
“chính quyền”, “chính đảng” hành xử như một lực lượng ngoại nhập đến thế, chỉ
biết kiểm soát, khống chế mọi lãnh vực của đời sống xã hội và con người cách
tinh vi và chặt chẽ, với gian dối và bạo hành, để củng cố quyền lực và thâu tóm
quyền lợi. Quyền lực và quyền lợi cho mình, cho thân thuộc, cho phe cánh, đang
lúc dân chúng trở thành kẻ bị bóc lột, đời sống nheo nhóc, mạng sống bị coi rẻ
như súc vật. “Chính quyền” và “chính đảng” này -do điều hành thất bại mọi mặt
và bị Tàu cộng khống chế mọi bề- đang rắp tâm bán nước, sáp nhập VN vào Trung
Hoa như một tỉnh lẻ. Chưa thời nào trong lịch sử Đất nước, lại có một dân tộc,
một xã hội bị lãnh đạo chính trị coi như con cái để dạy dỗ, con ở để bóc lột,
con tin để đem trao đổi đến thế; bị lực lượng cầm quyền không những gây khốn đốn
cho cuộc sống về mặt kinh tế, an ninh, môi trường, mà còn gây băng hoại cho
nhân cách về mặt ý thức, ý chí và lương tâm.
Nhưng không, hồn thiêng sông núi, tinh
thần dân tộc, ý chí bất khuất của giống nòi đang dâng lên trong lòng hàng triệu
con dân Việt khao khát tự do, sáng ngời ý thức trách nhiệm với vận mệnh Tổ quốc,
nung nấu ý chí và quyết tâm hành động muôn người như một để bằng mọi cách - với
sự trợ lực của Đồng bào hải ngoại - tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản đầu độc tâm
trí, giải thể chế độ cộng sản tàn hại xã hội và hất cẳng chính đảng cộng sản đã
dồn Dân tộc đến bước đường cùng, hầu xây dựng lại một đất nước tràn ngập chân
lý, công bình, tình thương và tự do. 40 năm dưới ách độc tài toàn trị này đã
quá đủ!!!
Làm
tại Việt Nam ngày 25-04-2015
Các
tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên
1-
Giáo hội Liên hữu Lutheran VN-HK. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa.
2-
Giáo hội PGHH Thuần túy. Đại diện: Cụ Lê Quang Liêm.
3-
Giáo hội PGHH Thành phố Cần Thơ. Đại diện: Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan.
4-
Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc
Truyển.
5-
Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Mục sư Nguyễn Trung Tôn.
6-
Hội Bảo vệ Quyền Tự do tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân
7-
Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng.
8-
Hội Cựu Tù nhân Lương tâm. Đại diện: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Linh mục Phan Văn Lợi.
9-
Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam: Đại diện: Các bà Trần Thị Hài, Trần Thị Nga, Huỳnh
Thục Vy
10-
Hội thánh Tin lành Chuồng Bò. Đại diện: Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng.
11-
Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài. Đại diện: Các Chánh trị sự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lân,
Nguyễn Bạch Phụng.
12-
Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa
13-
Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc. Đại diện: Ông Huỳnh Trọng Hiếu.
14-
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Nguyễn Hữu Giải
15-
Phòng Công lý Hòa bình DCCT Sài Gòn. Đại diện: Linh mục Đinh Hữu Thoại.
16-
Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh.
17-
Tăng đoàn Giáo hội PGVN Thống nhất. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh.
No comments:
Post a Comment