Joseph
S. Nye , Project
Syndicate
Biên
dịch: Lương Khánh Ninh | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 22/02/2015
Tại
hội nghị thường niên gần đây của Diễn đàn Kinh tế Thế giới được tổ chức ở
Davos, tôi đã tham gia cùng một nhóm các nhà lãnh đạo quốc phòng để thảo luận về
tương lai của quân đội. Vấn đề mà chúng tôi đề cập có vai trò rất quan trọng:
hiện nay quân đội nên chuẩn bị cho loại hình chiến tranh nào?
Các
chính phủ sở hữu lượng hồ sơ lưu trữ hết sức nghèo nàn khi chúng ta tìm câu trả
trả lời cho câu hỏi này. Chẳng hạn, sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, lực
lượng vũ trang của Hoa Kỳ đã đánh mất những gì nó học được về biện pháp chống
quân nổi dậy, để rồi phải tìm hiểu lại vấn đề này với cái giá rất đắt ở Iraq và
Afghanistan.
Các
hành động can thiệp quân sự của Mỹ ở những nước trên là những ví dụ điển hình của
một thách thức mang tính then chốt khác trong chiến tranh hiện đại. Như cựu Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã chỉ ra trong một cuộc phỏng vấn gần đây,
trong chiến tranh “mọi thứ có thể vuột khỏi tầm kiểm soát, trôi dạt và đi chệch
hướng” theo những cách mà có thể khiến một đội quân rơi vào việc tăng cường sử
dụng vũ lực so với dự kiến ban đầu. Theo đó, ý tưởng cho rằng vũ lực tự nó có
thể thay đổi những xã hội bị chia rẽ bởi xung đột ở Trung đông và những nơi
khác là một sai lầm nguy hiểm.
Tuy
nhiên, dù chiến tranh và vũ lực có thể bị giảm vai trò nhưng chúng vẫn chưa biến
mất. Chúng chỉ đơn thuần đang phát triển cho phù hợp với những quy tắc và chiến
thuật “thế hệ” mới mà thôi. Thế hệ đầu tiên của chiến tranh hiện đại bao gồm
các cuộc chiến với số lượng binh lính khổng lồ, sử dụng cách bố trí quân theo
hàng ngũ ngang dọc kiểu Napoleon. Thế hệ chiến tranh thứ hai, vốn đạt đến đỉnh
cao trong Thế chiến I, được thúc đẩy bởi lượng hỏa lực khổng lồ và được mô tả
trong câu châm ngôn được cho là xuất hiện từ Trận Verdun năm 1916, “pháo binh
chinh phạt, bộ binh chiếm đóng” (artillery conquers, infantry occupies). Và thế
hệ chiến tranh thứ ba – được nước Đức hoàn thiện với phương pháp “tấn công chớp
nhoáng” (blitzkrieg) được sử dụng trong Thế chiến II – nhấn mạnh chiến thuật
khéo léo hơn là vũ lực, với việc quân đội sử dụng biện pháp xâm nhập để vòng
qua kẻ địch và hạ gục lực lượng địch từ phía sau thay vì tấn công trực diện.
Thế
hệ chiến tranh thứ tư tiếp tục theo đuổi cách tiếp cận phi tập trung hóa này ở
một mức độ cao hơn với việc không có bất kỳ một mặt trận xác định nào. Thay vào
đó, nó tập trung vào xã hội của kẻ địch, vươn sâu vào trong lãnh thổ địch để
triệt tiêu ý chí chính trị. Người ta có thể thêm vào một loại thế hệ thứ năm mà
trong đó những công nghệ như máy bay không người lái và chiến thuật tấn công
qua không gian mạng cho phép các binh sĩ ở cách những mục tiêu dân sự cả một lục
địa.
Mặc
dù việc phân chia chiến tranh thành các thế hệ ở mức độ nào đó vẫn còn yếu tố cảm
tính, chúng phản ánh một xu thế quan trọng, đó là sự phai nhạt dần ranh giới giữa
mặt trận quân sự và hậu phương dân sự. Sự thay thế chiến tranh giữa các quốc
gia bằng các cuộc xung đột vũ trang liên quan đến các chủ thể phi nhà nước như
các nhóm nổi dậy, các mạng lưới khủng bố, phiến quân, và các tổ chức tội phạm
đang thúc đẩy sự chuyển dịch này. Một điều khiến vấn đề trở nên rối rắm hơn là
sự chồng lấn đan xen giữa các nhóm trên, một vài trong số đó thậm chí còn nhận
được sự hỗ trợ từ chính phủ. Lực lượng Cách mạng Vũ trang Colombia – tổ chức du
kích lâu đời nhất ở khu vực Mỹ Latinh – đã liên minh với các tập đoàn buôn bán
ma túy. Một số nhóm Taliban ở Afghanistan và những nơi khác đã phát triển quan
hệ với những tên khủng bố xuyên quốc gia Al Qaeda. Những người nổi dậy ở miền
đông Ukraine đang chiến đấu cùng với binh lính Nga (nhưng không đeo phù hiệu).
Những
tổ chức như vậy thường lợi dụng những quốc gia thiếu tính chính danh hay thiếu
năng lực để quản lý lãnh thổ một cách hiệu quả, chúng tiến hành các hoạt động
chính trị và hoạt động vũ trang mà sau một thời gian sẽ trao cho chúng sự kiểm
soát mang tính cưỡng bức đối với dân cư địa phương. Kết quả là cái mà Đại tướng
Rupert Smith, cựu chỉ huy quân đội Anh ở Bắc Ireland và vùng Balkans, gọi là
“chiến tranh giữa người dân với người dân” – một hình thái xung đột hiếm khi được
định đoạt trên chiến trường thông thường bằng quân đội truyền thống.
Các
cuộc chiến tranh lai (hybrid war) này được tiến hành với rất nhiều loại vũ khí
khác nhau, và không phải tất cả số vũ khí này đều có hỏa lực. Với camera trong
tất cả điện thoại di động và các phầm mềm chỉnh sửa ảnh trên tất cả máy tính –
chưa kể đến sự nổi lên của các phương tiện truyền thông xã hội – cuộc ganh đua
về mặt thông tin đã trở thành một khía cạnh tối quan trọng trong chiến tranh hiện
đại mà ví dụ tiêu biểu là các cuộc chiến gần đây ở Syria và Ukraine.
Trong
chiến tranh lai, các vũ khí truyền thống và phi truyền thống, chiến binh và thường
dân, sự hủy diệt vật chất và sự thao túng thông tin trở nên hòa quyện một cách
triệt để. Năm 2006 tại Libăng, lực lượng Hezbollah đã chiến đấu với Israel nhờ
những nhóm khủng bố nhỏ được huấn luyện bài bản, các nhóm này kết hợp tuyên
truyền, các chiến thuật quân sự truyền thống, và tên lửa được bắn từ những vùng
đông dân cư để đạt được điều mà nhiều nước trong khu vực nhìn nhận là một chiến
thắng về mặt chính trị. Gần đây hơn, Hamas và Israel đã tiến hành các hoạt động
quân sự trên không và trên bộ ở Dải Gaza nơi có nhiều dân cư sinh sống.
Hình
thái chiến tranh này nổi lên phần lớn để đáp trả lại lợi thế quân sự truyền thống
áp đảo của Mỹ sau khi Liên Xô sụp đổ, được minh chứng bởi chiến thắng trong cuộc
chiến tranh Iraq năm 1991 với chỉ 148 binh sĩ thiệt mạng, và hành động can thiệp
vào cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 mà trong đó Mỹ không có tổn thất sinh mạng
nào. Trước tình trạng bất cân xứng đó, những đối thủ của Hoa Kỳ – bao gồm cả những
chủ thể nhà nước và phi nhà nước – đã bắt đầu chú trọng vào các chiến thuật phi
truyền thống.
Chẳng
hạn, ở Trung Quốc, các nhà hoạch định quân sự đã phát triển chiến thuật “chiến
tranh không giới hạn” (unrestricted warfare) kết hợp các công cụ điện tử, ngoại
giao, không gian mạng, ủy nhiệm khủng bố, kinh tế, và tuyên truyền để đánh lừa
và làm kiệt quệ các hệ thống của Mỹ. Như một quan chức quân đội Trung Quốc đã
nói, “quy tắc đầu tiên của chiến tranh không giới hạn là không có bất kỳ quy tắc
nào.”
Về
phía các nhóm khủng bố, vốn nhận ra rằng không thể đánh bại quân đội truyền thống
trong một cuộc chiến trực diện, chúng cố gắng sử dụng chính quyền lực của các
chính phủ để chống lại họ. Với những hành vi tàn bạo phô diễn thu hút nhiều sự
chú ý, Osama bin Laden đã gây phẫn nộ và kích động Hoa Kỳ, khiến nước này phản ứng
thái quá theo những cách vốn đã triệt hạ uy tín của chính mình, làm suy yếu
liên minh của Mỹ với thế giới Hồi giáo, rồi cuối cùng đã làm kiệt quệ quân đội
Mỹ – và theo một khía cạnh nào đó còn là xã hội Mỹ nữa.
Tổ
chức Nhà nước Hồi giáo (IS) đang thực hiện một chiến thuật tương tự, kết hợp
các hoạt động quân sự tàn bạo cùng với một chiến dịch gây phẫn nộ bằng các
phương tiện truyền thông xã hội, được thực hiện lặp đi lặp lại thông qua những
tấm hình và đoạn phim về cảnh hành quyết đẫm máu, bao gồm việc chặt đầu một số
công dân Mỹ và các quốc gia phương Tây khác. Những nỗ lực này đã kích động các
kẻ thù của Nhà nước Hồi giáo đồng thời truyền cảm hứng cho một số lượng ngày
càng tăng những cá nhân và nhóm người bất mãn tự nguyện gia nhập tổ chức này.
Sự
phát triển không thể lường trước của chiến tranh đặt ra một thách thức nghiêm
trọng cho các nhà hoạch định quốc phòng. Đối với những nhà nước yếu kém, những
nguy cơ từ bên trong mang lại những mục tiêu rõ ràng cần giải quyết. Về phía
Hoa Kỳ, nước này phải cân bằng sự hỗ trợ dành cho các lực lượng quân đội truyền
thống – vẫn là một công cụ răn đe quan trọng ở châu Âu và châu Á – với khoản đầu
tư vào nhiều năng lực thay thế đa dạng mà các cuộc xung đột ở Trung Đông đòi hỏi.
Trong một giai đoạn của những thay đổi bất trắc khó lường, nước Mỹ – và cả những
cường quốc khác – phải sẵn sàng để đối phó với bất cứ điều gì.
oseph Nye, cựu trợ lý
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và Chủ tịch Hội đồng Tình báo Quốc gia Hoa Kỳ, hiện
là giáo sư trường Đại học Havard và là thành viên của Hội đồng Chương trình nghị
sự Toàn cầu về Tương lai của Chính phủ tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
No comments:
Post a Comment