07/02/2015
Câu
hỏi số 10 trên mẫu đơn N-400 xin gia nhập quốc tịch (Form N-400 – Petition for
naturalization) là câu hỏi nhạy cảm với nhiều người đến từ Việt Nam hay Trung
Quốc: “Quý vị có bao giờ từng là thành viên hay có bất kỳ mối liên hệ (trực tiếp
hay gián tiếp) với a) đảng cộng sản, b) Bất kỳ đảng độc tài nào khác, và c) Một
tổ chức khủng bố?”
Câu
hỏi số 10 và toàn bộ mẫu đơn N-400 sẽ được dùng để hỏi trực tiếp người nộp đơn
trong buổi phỏng vấn thi nhập quốc tịch, dưới sự tuyên thệ với tòa án và chịu
trách nhiệm trước pháp luật nếu khai man. Sau đó, nếu đơn xin nhập tịch được chấp
thuận, trước ngày lễ tuyên thệ, người nộp đơn còn phải trả lời 3 câu hỏi trên một
lần nữa trong mẫu đơn N-445, tại câu hỏi số 5, tái khẳng định trong thời gian
chờ đợi từ ngày phỏng vấn đến ngày tuyên thệ, họ không tham gia đảng cộng sản,
bất kỳ đảng độc tài nào khác, hay một tổ chức khủng bố.
Theo
số liệu của Viện Chích sách Nhập cư Hoa Kỳ (MPI), cho đến cuối năm 2012, nước
này có đến 1.3 triệu người Việt Nam nhập cư, chiếm hơn 0,4% tổng dân số. Đây
cũng là cộng đồng nhập cư lớn thứ 6 ở Mỹ, sau cộng đồng Mexico, Trung Quốc, Ấn
Độ, Philippines và Cộng hòa Dominican. Cộng đồng người Việt Nam nhập tịch gia
tăng nhanh chóng từ 231 nghìn người năm 1980. Họ chủ yếu là những thuyền nhân
Việt Nam vượt biên sau năm 1975, sau khi định cư tại Mỹ, họ đón người thân sang
theo diện đoàn tụ gia đình. Một bộ phận đáng kể và ngày càng lớn hơn là các du
học sinh ở lại sau khi học xong, người lao động có tay nghề và nhà đầu tư. Cần
lưu ý đây là số liệu người Việt Nam nhập tịch, không tính người Mỹ gốc Việt được
sinh ra ở Mỹ.
Mẫu
đơn nhập tịch khiến cho cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ tin rằng có một luật bất
thành văn trong thủ tục nhập quốc tịch Mỹ, đó là đảng viên đảng cộng sản hay những
ai có một mối liên hệ với đảng cộng sản sẽ không được cho phép trở thành công
dân Mỹ. Gần 40 năm qua, hầu như chưa có ai đặt ra câu hỏi là nước Mỹ thật sự có
cấm đảng viên đảng cộng sản trở thành công dân nước họ thông qua thủ tục gia nhập
quốc tịch hay không, và nếu có thì dựa vào điều luật nào của Luật Di trú Mỹ?
Tin đồn về việc một số đảng viên và con cái của đảng viên đảng cộng sản sang Mỹ
sinh sống và định cư càng khiến điều này trở thành mối quan tâm của cả người Việt
Nam trong nước lẫn nước ngoài.
Tiêu
chí nào để một thường trú nhân có thể gia nhập quốc tịch Mỹ?
Để
trả lời câu hỏi trên, chúng ta nên tìm hiểu vấn đề về tiêu chí dành cho một người
thường trú nhân ở Mỹ được nhập tịch trở thành công dân.
Đòi
hỏi trước tiên và có thể nói là duy nhất chính là người đó phải cho cơ quan
di trú và chính phủ Mỹ nhận thấy họ đã từng (trong quá trình sinh sống
như một người thường trú nhân ở Mỹ) và sẽ tiếp tục là một người gắn kết
với các nguyên tắc giá trị của Hiến pháp Mỹ và đã hoàn toàn hòa nhập vào trật tự
xã hội cũng như phúc lợi của Mỹ, theo Chương 316 (a) của Đạo luật Di trú và
Quốc tịch (Immigration and Nationality Act (INA) 316(a). 8 CFR 316.11.).
Theo
phán quyết của án lệnh In re Shanin, 278 F.739 (D.C. Mass. 1922), sự “gắn
kết” ở đây có nghĩa là người nào muốn trở thành công dân Mỹ, họ bắt buộc phải
là một người tích cực ủng hộ Hiến pháp nước này.
Sự
gắn kết đó bao gồm cả sự hiểu biết, tâm thức cũng như sự tình nguyện gắn bó với
những nguyên tắc giá trị của Hiến pháp. Bất kỳ người nào có thái độ thù địch với
cơ cấu tổ chức chính quyền Mỹ hoặc không tin vào những nguyên tắc giá trị của
Hiến pháp đều không đủ điều kiện để nhập quốc tịch chiếu theo phán quyết của án
lệ Allan v. United States, 115 F.2d 804 (9th Cir. 1940).
Sở
dĩ luật di trú đòi hỏi người thi nhập quốc tịch phải chứng minh họ đã và sẽ gắn
kết với các nguyên tắc giá trị của Hiến pháp là bởi vì Hiến pháp (bao gồm các
Tu chính án) được xem là đại diện cho “sự tối cao của luật pháp Mỹ” (Supreme
law of the land). Một người xin nhập quốc tịch Mỹ phải chứng minh được họ hoàn
toàn tin tưởng và tuyệt đối trung thành với nước Mỹ qua việc đồng ý ủng hộ và sẵn
sàng bảo vệ những nguyên tắc giá trị của Hiến pháp bằng cách cho thấy họ chấp
nhận những giá trị dân chủ và tinh thần tuân thủ pháp luật. Điều này sẽ được thể
hiện qua hành động đọc lời thề trung thành tuyệt đối với nước Mỹ (Oath of
Allegiance) trong ngày lễ tuyên thệ gia nhập quốc tịch.
Do
đó, việc một người đã từng là đảng viên của đảng cộng sản hay có một sự liên hệ
(gián tiếp hoặc trực tiếp) với nó đều có thể bị xem là không gắn kết được với
các nguyên tắc giá trị của Hiến pháp Mỹ nếu họ xin gia nhập quốc tịch.
(INA Chương 313 và 316. 8 CFR 316).
Ngoài
ra, việc một người là đảng viên đảng cộng sản hay những đảng phái độc tài khác,
hay tham gia những tổ chức khủng bố cũng có thể là cơ sở để nghi ngờ tư cách đạo
đức, động cơ họ xin lưu trú tại nước Mỹ, và cũng là có thể đủ để chính phủ Mỹ
tiến hành thủ tục trục xuất đối với họ.
Theo
Bộ An ninh Nội địa và Cơ Quan Di trú và Nhập tịch Mỹ (U.S. Citizenship and
Immigration Services – Department of Homeland Security) một người nếu là đảng
viên đảng cộng sản hay có liên hệ với đảng cộng sản trong vòng 10 năm trước
ngày nộp đơn và cho đến ngày tuyên thệ gia nhập quốc tịch thì sẽ không được
nhập quốc tịch Mỹ.
Tuy
nhiên điều luật này có thể được miễn trừ nếu người xin nhập quốc tịch chứng
minh được, bao gồm những điều sau đây nhưng không phải nhất thiết là tất cả:
(1) việc họ tham gia đảng cộng sản hay mối liên hệ với nó là việc không tự nguyện,
(2) khi tham gia họ không có sự nhận thức về mục đích của tổ chức của đảng cộng
sản và khi có nhận thức về điều đó họ đã chấm dứt quan hệ với tổ chức, (3) họ
đã chấm dứt quan hệ với đảng cộng sản trước năm 16 tuổi, (4) họ tham gia đảng cộng
sản vì đó là sự bắt buộc phải chấp hành theo quy trình pháp luật, (5) họ tham
gia đảng cộng sản vì những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống như để có được việc
làm, được phân phối thực phẩm và những nhu yếu phẩm khác, và (6) họ đã không
còn là đảng viên đảng cộng sản trên 10 năm.
Từ
đó có thể kết luận là Đạo luật về di trú Mỹ cho phép những người đã từng là đảng
viên đảng cộng sản gia nhập quốc tịch Mỹ nếu họ chứng minh được họ thuộc trong
6 diện miễn trừ nêu trên.
Quốc
tịch Mỹ có thể bị tước bỏ
Ngoài
ra, nếu một người sau khi nhập tịch và trở thành công dân Mỹ, mà lại tham gia đảng
cộng sản, các đảng phái độc tài khác, các tổ chức khủng bố hay các tổ chức chống
lại Mỹ, Hiến pháp Mỹ, và người dân Mỹ, chính phủ có thể khởi kiện người đó ra hệ
thống tòa di trú (Immigration court system) và đề nghị tòa tước bỏ quyền công
dân qua hệ thống tòa án di trú.
Những
người khai man trong đơn xin gia nhập quốc tịch Mỹ liên quan đến những vấn đề
này cũng có thể bị kiện tước bỏ quyền công dân Mỹ.
Cần
lưu ý là việc tham gia đảng cộng sản không mặc nhiên khiến cho một công dân nhập
cư mất quốc tịch Mỹ, bởi đảng cộng sản được tự do thành lập và hoạt động tại đất
nước này.
Đơn
kiện tước bỏ quyền công dân và quốc tịch sẽ được tống đạt đến người bị kiện và
họ sẽ được quyền phản bác đơn kiện cũng như phía chính phủ Mỹ phải chứng minh
được lý do tước quốc tịch tại tòa với những bằng chứng rõ ràng, chắc chắn và
thuyết phục (clear, unequivocal and convincing). Đây là một chuẩn mực về bằng
chứng rất cao, chỉ đứng sau chuẩn mực “nghi ngờ hợp lý” (beyond a reasonable
doubt) của những vụ án hình sự ở Mỹ. Nghĩa vụ phải chứng minh là trách nhiệm của
phía chính phủ. Và, chính phủ phải chứng minh được các bằng chứng đưa ra cho thấy
bị cáo không có “sự gắn bó” với Hiến pháp Mỹ khi tham gia các tổ chức nêu trên.
Án
lệ nổi tiếng Schneiderman v. United States 320 U.S.118 (1943), một phán
quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, chính là ví dụ đơn cử cho chuẩn mực về những
hồ sơ đề nghị tước quyền công dân sau khi nhập tịch vì lý do đảng phái chính trị.
Người kháng án Schneiderman là di dân gốc Nga, đã đến Mỹ năm 3 tuổi vào khoảng
thời gian 1907-1908. Năm 1922, Schneiderman tham gia Liên đoàn Công nhân Trẻ của
thành phố Los Angeles. Năm 1924, Schneiderman nộp đơn gia nhập quốc tịch Mỹ và
năm 1925 anh ta tham gia Đảng Công nhân, là tiền thân của đảng Cộng sản Hoa Kỳ.
Schneiderman trở thành công dân Mỹ năm 1930. Cũng từ năm1930, Schneiderman bắt
đầu giữ những vị trí lãnh đạo của đảng Cộng sản Hoa Kỳ và vào năm 1939, chính
phủ Mỹ bắt đầu khởi kiện đòi tước bỏ quyền công dân của Schneiderman. Tại phiên
tòa xét xử, tư cách công dân Mỹ của Schneiderman đã bị tước bỏ và thu hồi quốc
tịch đối với anh.
Tối
cao Pháp Viện Hoa Kỳ, sau đó, đã chấp nhận đơn kháng án của Schneiderman vì
phán quyết về quyền công dân và quốc tịch Mỹ của anh sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến
cuộc sống của Schneiderman khi anh có thể bị trục xuất khỏi đất nước mà anh đã
sinh sống từ năm ba tuổi. Phán quyết của Tối cao Pháp viện đã lật lại bản án của
Schneiderman cũng như hủy bỏ quyết định tước quốc tịch của phiên xử trước. Như
lời của thẩm phán Murphy, người viết quyết định chính thức của vụ án: phía
chính phủ đã không thể chứng minh là những mối liên hệ với đảng Cộng sản Hoa Kỳ
của Schneiderman khiến cho anh trở thành người không có sự “gắn kết” với những
nguyên tắc giá trị của Hiến pháp Mỹ cũng như Schneiderman đã không có bất kỳ
hành động gì chống lại Hiến pháp và người dân Mỹ trong thời gian giữ những chức
vụ của đảng Cộng sản Hoa Kỳ.
Do
đó, việc một người đang là hay đã từng là đảng viên đảng cộng sản không nhất
thiết là lý do từ chối việc gia nhập quốc tịch hay là bằng chứng để tước quốc tịch
của công dân Mỹ. Quốc tịch Mỹ là sự cam kết giữa chính phủ Mỹ và những cá nhân
tin tưởng vào những nguyên tắc giá trị mà Hiến pháp đại diện, được thể hiện qua
lời thề quyết tâm bảo vệ trước nhất và trên hết sự tự do, dân chủ cũng như những
quyền con người nằm trong văn bản pháp luật tối cao đó trong ngày tuyên thệ gia
nhập quốc tịch.
Tài
liệu tham khảo:
---------------------------
3
Responses
1.
montaukmosquito
Theo
kinh nghiệm riêng của bản thân, khi phỏng vấn để đi Mỹ -nghe nói châu Âu cũng
áp dụng- sẽ bị/được hỏi có (đang) là đảng viên không ? Nếu trả lời “có”, lập tức
cá nhân đó bị bác . Đó là qua Mỹ theo diện thường trú nhân . Tất nhiên có ngoại
lệ, như được các cá nhân/tổ chức chính phủ bảo lãnh và bảo đảm, sau khi làm giấy
cam kết từ bỏ đảng . Hoặc có diện khác là tỵ nạn chính trị .
Còn
những diện khác như du lịch, du học, công tác, mở business với tiền đặt cọc
trên 100 000 đô và hứa hẹn mướn từ 2 nhân viên full-time trở lên với đầy đủ
benefits, bảo hiểm … thì policy lax hơn . Đây là những trường hợp mà giới đảng
viên lợi dụng để quy Mã . Sau đó họ cho con cái kết hôn với bên này hoặc chính
thức hoặc lậu . Sau khi kết hôn, họ mới có thể qualified cho diện thường trú
nhân .
Trường
hợp của tớ, có ông bác ruột là đảng viên gạo cội, nhưng họ điều tra thấy không
có quan hệ mật thiết, ngoài ra những người trong gia đình đều gắn bó với các
chính quyền miền Nam và các cơ quan, công sở của Mỹ hoặc nước ngoài, trong đó 4
người đi cải tạo nên sau 1 tuần điều tra, mọi việc đều OK.
Và
đảng viên đảng Cộng Sản bị cấm nhập cảnh theo diện thường trú nhân, di tản
(immigration) là đúng . Ở Miami đã có nhiều trường hợp bị trục xuất hoặc bị tòa
án Mỹ truy tố vì dân Cuba phát hiện 1 số đảng viên Cộng Sản giấu lý lịch của
mình và được qua Mỹ .
2.
montaukmosquito
Khoảng
cuối những năm 90’s, ở Miami có truy tố 1 đảng viên Cộng Sản mà theo dân tố
cáo, khi còn ở Cuba, là cai trại cải tạo, đã đánh đập và tra tấn dã man các tù
chính trị . Trong đợt Fidel Castro thả cho dân đi thả cửa -sau 1 tuần thì đóng
lại vì dân đi quá nhiều- ông ta quy Mã . Khi phỏng vấn, chối béng về quá khứ là
đảng viên của mình nên lọt vào Mỹ . Không ngờ sống được vài năm lại bị chính nạn
nhân cũ của mình phát hiện và tố cáo .
3.
montaukmosquito
Đây
là link về US immigration policy (luật di trú Mỹ) đ/v đảng viên đảng Cộng Sản
Generally,
membership in the Communist Party is a bar to immigration to the United States.
any
immigrant who is or has been a member of or affiliated with the Communist or
any other totalitarian party, domestic or foreign, is inadmissible.
Dịch:
Thông thường, đảng viên đảng Cộng Sản là cản trở trong vấn đề nhập cư vào nước
Mỹ .
Bất
cứ di dân nào là thành viên của đảng Cộng Sản hoặc các đảng toàn trị khác, nội
địa hay nước ngoài, đều không được phép (nhập cư vào Mỹ)
Để
nói rõ hơn, hiện có 2 đảng mà thành viên không được nhập cư vào Mỹ, là đảng Cộng
Sản và đảng Phát xít (mới hoặc cũ). Chắc sẽ tăng lên thành 3 sau khi IS (Nhà nước
Hồi Giáo) xuất hiện .
No comments:
Post a Comment