1/04/2015 30
Comments
Ngân
sách quốc phòng của Trung Cộng khác nhau tùy theo nguồn ước lượng. Theo công bố
chính thức của Trung Cộng, ngân sách quốc phòng năm 2014 là 131.5 tỉ đô la
nhưng theo Stockholm International Peace Research Institute năm 2013 Trung Cộng
đã dành 188 tỉ đô la cho chi phí quốc phòng. Trung Cộng có quân đội hiện dịch
2.3 triệu quân với 500 ngàn quân trừ bị. Trung Cộng có kho vũ khí và phương tiện
chiến tranh tối tân và hiện đại hơn tất cả các quốc gia khác ở Á Châu. Cho dù tối
tân và đông đảo bao nhiêu cũng không thể so với 27 ngàn đầu đạn nguyên tử, các
hạm đội hùng mạnh và 250 sư đoàn bộ binh trang bị tận răng của Liên Xô trước
ngày 25 tháng 12 năm 1991. Nhưng Liên Xô đã đổ, rồi Trung Cộng cũng phải đổ.
Bao
giờ Trung Cộng đổ?
Gordon
Chang, nhà phân tích kinh tế chính trị đã làm việc 20 năm tại lục địa Trung Quốc,
trong tác phẩm The Coming Collapse of China xuất bản 2001 tiên đoán
Trung Cộng sẽ đổ vào năm 2011.
Lý
do, theo Chang trong phần hỏi đáp về tác phẩm của ông, đã viết: “Mao Trạch
Đông, người sáng lập ra Trung Cộng, xây dựng một xã hội bất bình thường và cô lập
chính nó từ các quốc gia khác. Hệ thống đó có thể tồn tại mãi cho đến khi Trung
Cộng biệt lập từ thế giới, nhưng những người kế tục Mao đã tìm cách mở cửa ra
thế giới bên ngoài. Khi một quốc gia trở nên hội nhập nhiều hơn với các quốc
gia khác, một lực đẩy áp dụng cho toàn thế giới – chính trị, kinh tế và xã hội
– cũng ảnh hưởng Trung Cộng. Tại một điểm trong tiến trình này, hệ thống bất
bình thường của Mao sẽ bị bỏ rơi vì về căn bản không thích hợp với vai trò mà
Trung Cộng tìm kiếm trong hệ thống quốc tế. Một thời gian ngắn, chính phủ Trung
Cộng sẽ không còn khả năng để đáp ứng với các thách thức của một xã hội mở rộng
và năng động”.
Trung
Cộng không đổ như Gordon Chang đoán.
Thận
trọng hơn Gordon Chang, công ty Strafor, một công ty thông tin tình báo chiến
lược toàn cầu hiện do George Friedman làm Chủ tịch Chấp hành, trong Dự đoán
Thập niên công bố ngày 21 tháng Giêng, 2010 cho rằng nền kinh tế Trung Cộng
sẽ đổ trong vòng 10 năm tới. Trả lời thay mặt cho Strafor, Peter Zeihan, phó chủ
tịch công ty, giải thích lý do: “Chúng tôi đã phân tích vấn đề này trước đây
về một hệ thống kinh tế Trung Quốc bất ổn và chúng tôi nghĩ sự bất ổn đó đạt điểm
vỡ khi các mâu thuẫn nội tại của Trung Quốc bùng ra và tan nát”.
Bước
vào năm thứ năm của thập niên, Trung Cộng vẫn chưa đổ theo ước tính của
Strafor.
Tuy
nhiên, dù không xảy ra như Gordon Chang dự đoán hay chưa xảy ra như Strafor ước
tính, cả hai và rất đông các nhà phân tích kinh tế chính trị, đều có một nhận
xét căn bản rất giống nhau rằng Trung Cộng sớm muộn cũng sẽ đổ vì phải đương đầu
với những khó khăn không thể vượt qua.
Những
vấn đề của Trung Cộng
Dân số già nua
Dân
số tại các quốc gia tiên tiến có khuynh hướng tăng chậm và điều này có nghĩa tỉ
lệ người cao tuổi ngày tăng cao so với thế hệ vừa sanh. Thế nhưng, tại Trung Cộng
mức độ chênh lệch đó cao nhất trên thế giới. Giai đoạn hòa bình sau năm 1949 với
chính sách kiểm soát dân số còn tương đối lỏng lẻo là cơ hội cho một số rất
đông dân được sinh ra. Lớp người này sau đó trở thành lực lượng lao động chính
trong giai đoạn hội nhập vào thế giới đầu thập niên 1980, giúp thúc đẩy nền
kinh tế và giữ chi phí y tế an sinh xã hội thấp. Người dân trong giai đoạn này
làm nhiều nhưng tiêu ít. Điều kiện đó đang bị đảo ngược. Hiện nay Trung Cộng là
xã hội tiêu thụ nhưng có ít trẻ con hơn người già.
Theo
ước tính của đề án PewResearch Global Attitues Project, năm 2050 Trung Cộng sẽ
chỉ tăng 25 triệu so với 400 triệu của Ấn Độ. Các phân tích dân số ước tính
Trung Cộng đang trở nên quốc gia không chỉ già nhất thế giới mà còn già nhanh
nhất thế giới. Trong thời gian vài năm nữa, Trung Cộng sẽ là viện dưỡng lão khổng
lồ. Một quốc gia già nua có nghĩa các chi phí an sinh xã hội, dịch vụ y tế cũng
gia tăng một cách tương ứng và là một gánh nặng không chịu nổi cho đất nước 1.4
tỉ dân. Lực lượng lao động phần lớn được dùng trong giai đoạn sản xuất dây chuyền,
thiếu sáng tạo kỹ nghệ mang tính tiên tiến và khai phá. Phần lớn hàng hóa, dù
tiêu dùng hay kỹ thuật cao cấp cũng được phát minh, sáng chế từ nước
khác.
Tham nhũng
Tham
nhũng xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới nhưng tại các nước do đảng CS cai trị
tham nhũng không chỉ trầm trọng mà còn có tính đảng.
Gọi
là tính đảng bởi vì tình trạng tham nhũng phát sinh ngay trong lòng cơ chế
chính trị, do cơ chế nuôi dưỡng, tràn lan sang các bộ phận của hệ thống và dần
dần làm hư thối toàn xã hội. Từ Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm Đào đều đưa mục
tiêu chống tham nhũng lên hàng đầu nhưng cả hai đều biết tham nhũng sẽ tồn tại
cùng với sự tồn tại của đảng CS. Các chương trình chống tham nhũng “đầu voi
đuôi chuột” được phát động ồn ào và đầu hàng chỉ sau 18 tháng. Lý do, bịnh ung
thư tham nhũng lan quá rộng và quá sâu đến các bộ phận sinh tử của đất nước, nhất
là trong quân đội.
Sự
phân cách giàu nghèo xảy ra tại hầu hết các nước phát triển, trong đó, một vài
phần trăm người dân sở hữu một nguồn lớn của cải xã hội. Tại Trung Cộng, chỉ một
phần trăm trong tổng số trên một tỉ người sở hữu 40 phần trăm của cải. Điều
khác giữa Trung Cộng và các quốc gia tư bản là số tài sản mà một phần trăm nắm
giữ tại Trung Cộng là do tham ô, hủ hóa, là máu xương, mồ hôi nước mắt của người
dân làm ra.
Thiếu tính chính danh lãnh đạo đất nước
Theo
tác giả Ross Terrill trong tác phẩm The New Chinese Empire tại Trung Cộng
chủ quyền của con người không tồn tại ngay cả trong lý thuyết chứ đừng nói chi
là thực tế. Mọi quyền hạn đều tập trung trong tay đảng nhưng không ai bầu đảng
CS, không ai trao cho đảng quyền lãnh đạo. Trong thời kỳ mới mở cửa, người dân
tập trung xây dựng cuộc sống sau khi vừa bước ra khỏi thời tem phiếu nên có
khuynh hướng chấp nhận hay không quá quan tâm đến việc ai lãnh đạo mình nhưng
thái độ đó đang thay đổi nhanh chóng.
Tại
Trung Cộng không có một cơ quan, đoàn thể xã hội nào mà không đặt dưới sự lãnh
đạo của đảng CS. Mặc dù quốc gia có nhiều ngàn tờ báo nhưng không có tờ báo nào
đưa vấn đề chính sách ra bàn cãi. Khi mức độ hội nhập vào thế giới gia tăng sự
bất mãn trong quần chúng đối với đảng và nhà nước CS cũng gia tăng. Theo giáo
sư David Shambaugh, đại học George Washington, mức độ trấn áp hiện nay tại
Trung Cộng lên cao nhất kể từ năm 1989.
Bất ổn xã hội
Theo
Gini Index, tiêu chuẩn đo lường mức độ mất cân xứng trong việc phân phối
lợi tức gia đình, Trung Cộng là một trong số mười phần trăm mất cân xứng nhất
trên thế giới. Hiện nay các sinh viên tốt nghiệp đại học không có công ăn việc
làm tốt như các thế hệ sinh viên trước đây.
Các
thành phần giàu có đang tìm cách chuyển tiền ra nước ngoài để mua tài sản cố định
và tìm cách định cư. Theo thống kê của Shanghai ‘s Hurun Research Institue thực
hiện vào tháng Giêng, 2014, có đến 64 phần trăm trong số 393 người giàu có được
thăm dò đang tính hay sẽ tính di chuyển ra nước ngoài. Mỗi năm tại Trung Cộng
có 200 ngàn cuộc biểu tình trong các mức độ và hình thức khác nhau, từ những cuộc
biểu tình đẫm máu ở Tây Tạng, Xinjiang cho đến các đình công nhỏ trong các công
ty.
Xã
hội bưng bít Trung Cộng không thể thích nghi với thế giới luôn đổi thay và sinh
động. Các chính sách tự diễn biến trong suốt 25 năm qua của các lãnh đạo Trung
Cộng đều có tính cách chiến thuật, phòng thủ, vá víu từng giai đoạn. Trung Cộng
gặp ít nhiều may mắn về cung ứng hàng hóa rẻ cho thị trường thế giới trong giai
đoạn đầu của toàn cầu hóa nhưng về lâu dài khi mức cung cầu được bão hòa, mức độ
phát triển kinh tế sẽ chậm lại. Các lãnh đạo Trung Cộng biết điều đó nhưng biết
là một chuyện mà vượt qua được hay không là chuyện khác. Đổi mới quá xa Trung Cộng
sẽ trở thành Liên Xô năm 1991 mà không đổi mới cách mạng cũng sẽ bùng vở từ
trong lòng quần chúng.
Ô nhiễm
Đây
là lãnh vực mà Trung Cộng giữ kỷ lục hàng đầu thế giới trong nhiều năm chưa có
đối thủ tranh giành được. Điều kiện an toàn hầm mỏ, Trung Cộng cũng được vào mức
tệ hại nhất thế giới. Nước, không khí, kỹ nghệ bị ô nhiễm là nguồn của các bịnh
ung thư và các bịnh liên quan đến bộ phận hô hấp. Tuy che đậy, chính phủ Trung
Cộng phải thừa nhận 70% sông, hồ bị ô nhiễm. Năm 2007, World Bank trong một tổng
kết đã tố cáo tình trạng ô nhiễm tại Trung Cộng là lý do cho 760 ngàn trẻ em chết
non và các bệnh hô hấp khác.
Hai
tác giả Joseph Kahn và Jim Yardley của New York Times trong bài điều tra
năm 2007 cho rằng tình trạng ô nhiễm đe dọa vai trò lãnh đạo của đảng CSTQ.
Cũng theo bài điều tra này, 500 triệu người dân Trung Quốc không có nước uống
an toàn vệ sinh. Chỉ vỏn vẹn 1 phần trăm dân chúng thở không khí với mức độ
trong lành tương tự như một người dân Âu Châu thở. Đảng và nhà nước CSTQ công bố
hàng loạt các chương trình bảo vệ môi trường nhưng không đạt kết quả bởi vì người
dân không có quyền góp ý và báo chí không được phép phê bình.
Chủ trương của Mỹ trước viễn ảnh Trung Cộng đổ: một chính sách
hai phương cách (dual-track policy)
Vì
có nhiều ẩn số chưa giải đáp nên không ai có thể có một câu trả lời dứt khoát
Trung Cộng sẽ chuyển hóa qua tự do dân chủ trong hòa bình hay sẽ trở thành một
hay nhiều nước tự do sau một cuộc chiến tranh đẫm máu. Để đáp ứng cả hai tình
huống, Mỹ áp dụng một chính sách hai phương cách (dual-track policy) đối
với Trung Cộng.
Giáo
sư Aaron L. Friedberg, thuộc đại học Princeton và nguyên Phụ tá An ninh Quốc
gia tại văn phòng Phó Tổng Thống vào năm 2005, giải thích chính sách này gồm
hai mặt: vừa hợp tác xuyên qua ngoại giao, mậu dịch, khoa học kỹ thuật và văn
hóa giáo dục nhưng đồng thời cũng tăng cường quân sự để đáp ứng với sự gia tăng
quân sự của Trung Cộng trong vùng Đông Á qua các hợp tác quân sự với Úc, Nhật,
Nam Hàn và Philippines.
Khả
năng tốt đẹp nhất cho Mỹ và nhân loại là thông qua mậu dịch và hợp tác, Mỹ sẽ
thúc đẩy Trung Cộng từng bước chuyển hóa sang xã hội tự do. Tuy nhiên, sau mấy
chục năm theo đuổi từ Nixon đến Obama, mục đích giải phóng chính trị trong hòa
bình cho Trung Cộng ngày càng xa thêm.
Sự thất bại của chủ trương một chính sách hai phương cách
(dual-track policy)
Chủ
trương chính sách hai phương cách (dual-track policy) với Trung Cộng đã
chứng tỏ không thành công. Mặc dù không công khai tuyên bố, mục đích của Trung
Cộng là làm bá chủ biển Đông, và điều đó đi ngược lại quyền lợi tối quan trọng
của Mỹ và đông minh tại Á Châu.
Về
mặt đối nội, cải cách chính trị sẽ diễn ra tại Trung Cộng trước mắt cũng như
lâu dài. Kinh nghiệm đổi mới tại Liên Xô trước năm 1991 cho lãnh đạo CSTQ biết
đổi mới quá đà sẽ dẫn đến những phản ứng xã hội ngoài tầm kiểm soát của đảng.
Về
mặt bang giao quốc tế, Trung Cộng không hành xử với tư cách một cường quốc có
trách nhiệm, cụ thể qua việc Bắc Hàn thử nghiệm hỏa tiễn tầm xa và việc Iran
thí nghiệm nguyên tử. Ngoài ra, trong lúc Mỹ cắt giảm ngân sách quốc phòng,
Trung Cộng lại gia tăng với mục đích nắm phần ưu thế, ít nhất tại vùng Đông Á
Châu. Lãnh đạo Trung Cộng mặc dù mạnh về kinh tế nhưng luôn sống trong nỗi bất
an bị Mỹ bao vây và lật đổ.
Cách mạng bạo động
Lịch
sử Trung Quốc cho thấy rất ít khi một biến cố chính trị diễn ra trong êm đẹp.
Khả năng rất thấp cho một cuộc cách mạng nhung, cách mạng da cam, hoa lài diễn
ra tại Trung Cộng. Cách mạng tại Trung Cộng sẽ là cách mạng máu. Vũ khí của giới
cầm quyền dù có hiện đại bao nhiêu cũng không thể ngăn chận được sức mạnh của
toàn dân khi họ đã quyết tâm đứng dậy.
Một
yếu tố mà lãnh đạo Trung Cộng không dự đoán được là sự phẩn uất bùng nổ của 1.4
tỉ dân. “Năm nọc độc” như bộ máy tuyên truyền Trung Cộng gọi gồm Đài Loan, Tây
Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà tranh đấu dân chủ, trong đó
bốn “nọc độc” nằm ngay trong lục địa và sẽ trở thành lực lượng quyết định số phận
của đảng CSTQ.
Mặc
dù phong trào CS trên phạm vi thế giới không còn tồn tại, sự cách ngăn về ý thức
hệ giữa Mỹ và Trung Cộng quá lớn để đặt qua một bên bởi vì ý thức hệ ảnh hưởng
đến sự tin tưởng giữa hai chính phủ. Điều rõ ràng rằng nếu Trung Cộng là một quốc
gia dân chủ, sự xung đột quyền lợi sẽ không trầm trọng như xung đột giữa Mỹ dân
chủ tự do và Trung Quốc độc tài CS. Khi cách mạng bùng nổ, Mỹ và Tây Phương, vị
lợi ích kinh tế chính trị, sẽ ủng hộ các lực lượng dân chủ.
Phản ứng của lãnh đạo Trung Cộng trước thời điểm đổ
Sinh
mạng của chế độ CSTQ gắn liền với phát triển kinh tế. Từ 1980 đến 2011 nền kinh
tế Trung Cộng tăng trưởng trung bình 10 phần trăm mỗi năm. Mức phát triển đó
không bao giờ trở lại. Nhà phân tích Bob David của tờ The Wall Street
Journal nhận định trong mười năm tới kinh tế Trung Cộng chỉ phát triển từ
3.9 phần trăm. Một số nhà phân tích khác bi quan hơn khi cho rằng kinh tế Trung
Cộng chỉ tăng 1.6 đến 1.7 phần trăm. Mức phát triển đó là một mức chậm tại các
nước kỹ nghệ nhưng là một tai họa nếu xảy ra tại Trung Cộng.
Điều
gì sẽ xảy ra? Trung Cộng theo lý thuyết buộc sẽ giảm cường độ các xung đột và
tranh chấp với các nước láng giềng để tập trung giải quyết các vấn đề nội bộ.
Tuy nhiên, theo Andy Morimoto phân tích trong Can China Fall Peacefully?
đăng trong The National Interest ngày 19 tháng 11, 2014, lúc đó Trung Cộng
sẽ phát động chiến tranh để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng CS.
Bằng
chứng, trong thập niên 1950, Trung Cộng thay vì tập trung tái thiết kinh tế sau
cuộc chiến tranh dài, đã phát động chiến tranh Triều Tiên để củng cố vai trò của
đảng. “Sự xúi dục của nước ngoài” thường là bình phong để thanh trừng nội bộ đảng.
Edward Wong, sử gia về Trung Quốc, trên New York Times ngày 11 tháng 11,
2014 trong bình luận In New China, ‘Hostile’ West Is Still Derided, Tập
Cận Bình trong khi trải thảm đỏ chào đón TT Mỹ Barack Obama, cùng lúc đã ca ngợi
blogger Zhou Xiaoping như có “tinh thần tích cực” vì blogger này đã viết bài chống
Mỹ.
Cũng
theo Andy Morimoto, làm việc tại Hội Đồng Chicago Về Các Vấn Đề Thế Giới, “viễn
ảnh hòa bình tại Á Châu không nhiều hứa hẹn” và ông đề nghị chính phủ Mỹ thay
vì dùng hai phương cách nên tập trung vào việc tăng cường quân sự tại Á Châu bởi
vì tiên đoán hợp lý nhất vẫn là chiến tranh sẽ bùng nổ trong tương lai.
Lối thoát của Việt Nam
Để
giới hạn hay giảm nhẹ mức ảnh hưởng của chiến tranh, chọn lựa duy nhất của Việt
Nam là phải thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng trước khi Trung Cộng đổ. Không có
cánh cửa nào khác hơn là dân chủ. Tuy nhiên lãnh đạo CS Việt Nam không có khả
năng đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng bằng con đường dân chủ.
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ
Chí Minh tại Moscow giữa tháng Giêng 1950, đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay
Trung Cộng. Từ đó, CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng không chỉ phương tiện
chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách
ăn, cách mặc.
Đọc các tài liệu quốc tế trong thời kỳ chống Pháp để thấy Mao gần như đơn
phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn
tháng cần phải chiếm cho được Điện Biên Phủ. Máu xương của bao thanh niên Việt
Nam đổ xuống trong chiến tranh chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh có thể phát
xuất từ lòng yêu nước chân thành nhưng đã bị CSVN và CS quốc tế lợi dụng từng nắm
xương, từng giọt máu.
Và
hôm nay, Trung Cộng là mảnh ván duy nhất còn lại để lãnh đạo CSVN bám vào. Dù
thỉnh thoảng vẫn giả giọng hát bài ca yêu nước, thương dân, lãnh đạo CS biết
không có mảnh ván Trung Cộng, chế độ CSVN sẽ chìm. Chọn lựa duy nhất cho một Việt
Nam dân chủ vẫn thuộc về các thành phần Việt Nam yêu nước và không Cộng Sản.
Bài học Latvia độc lập dân chủ trước khi Liên Xô đổ
Latvia
là quốc gia nhỏ, hiện theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô Riga, có dân số
thống kê năm 2010 là 2 triệu người, có chung biên giới với Estonia, Lithuania,
Belarus và Nga. Latvia độc lập năm 1918, nhưng bị Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức
Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô chiếm lần nữa năm 1944 và sau đó trở thành
nước CS trong hệ thống Liên Xô mãi cho đến khi chính thức độc lập năm 1991. Trước
khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế
nhanh nhất Châu Âu. GPD trên đầu người năm 2013 của Latvia là 15,375 đô la. Hiện
nay, Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF và nhiều tổ
chức quốc tế khác.
Bằng
việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia (The
Declaration on Restoration of Independence of the Republic of Latvia),
Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một
năm rưỡi trước khi Liên Xô đổ.
Lãnh
đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một nước cộng hòa tân lập
mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập từ 1918. Mặc dù đại đa số thành viên bỏ
phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố chưa sinh ra trong giai đoạn lịch sử 71 năm
trước đó, họ biết rằng lịch sử Latvia là một giòng sông, có lúc êm đềm, có khi
gềnh thác nhưng liên tục chảy. Giọt nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ
thượng nguồn Latvia năm 1918 đầy hy sinh gian khổ qua tay Hitler và Stalin, hai
lãnh tụ độc tài tàn ác nhất trong lịch sử loài người.
Mặc
dù hiện nay Latvia có nhiều đảng, tổ chức chính trị nhưng trong thời điểm 1990,
các lãnh đạo phong trào dân chủ Latvia theo đuổi các mục tiêu hết sức cụ thể và
sáng suốt:
(1).
Tập trung mọi thành phần dân tộc dưới một mặt trận duy nhất là Phong Trào Dân Tộc
Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ một mục tiêu là loại bỏ chế
độ CS tại Latvia và thoát khỏi quỹ đạo Moscow.
(2).
Kế tục nền Cộng Hòa đã ra đời năm 1918 thay vì thành lập quốc gia mới.
(3).
Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu tuyên bố độc lập để
sau đó được trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu (European Union) và thành
viên của NATO.
(4).
Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế chính trị của Mikhail
Gorbachev.
(5).
Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Khối Thịnh Vượng chung cùng với
11 quốc gia cựu Liên Xô trong hội nghị tại Kazakhstan để rồi khối này bị cuốn
vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.
Trong
số 138 đại biểu bỏ phiếu chấp thuận bản Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng
Hòa Latvia buổi sáng ngày 3 tháng 5 năm 1990 không phải đều có một quá khứ giống
nhau nhưng cùng chia sẻ một ước vọng tương lai tươi đẹp cho dân tộc họ. Dân số
Latvia chỉ vỏn vẹn 2 triệu người nhưng đã thắng Liên Xô hùng mạnh gấp ngàn lần
hơn bởi vì không có sức mạnh nào mạnh hơn sức mạnh của đoàn kết dân tộc.
Mọi
chế độc chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail Enver
Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các lãnh đạo CS
Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các quốc gia toàn trị
còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một người yêu nước, khôn
ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng, một hướng đi về phía dân tộc
để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho
con cháu mai sau.
_______________________________________
Tham
khảo:
1.
Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War,
1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholar, 2002
2.
Jung Chang and Jon Halliday, Mao: The Unknown Story, Anchor Books, November 14,
2006
3.
Gordon Chang, The Coming Collapse of China. Author Q&A, why will China
Collapse?
4. STRATFOR'S
TOP PREDICTIONS FOR THE NEXT DECADE: China Collapse, Global Labor
Shortages, New American Dominance.
6.
David Shambaugh, China
at the Crossroads: Ten Major Reform Challenges, George Washington
University, October 1 2014
7. Pollution in China,
Wikipedia.org
8.
Steven Metz, U.S.
Military Must Prepare for China’s Rise—and Fall , World Politics review,,
April 23, 2014
9. Bucking
Beijing, An Alternative U.S. China Policy
10. Chinese Military
, The Lowy Institute.
13. How
Democracy is Latvia, Commission of Strategic Analysis, Latvijas
Universitate, 2005
No comments:
Post a Comment