Đỗ Tuyết Khanh
Posted
on Jan 3, 2015
Trong
một nghìn lẻ một những lời lên án các tai hại do toàn cầu hóa gây ra, có một luận
điểm thường được đưa ra, đáng ngạc nhiên nhất là xuất phát từ những khuynh hướng
chính trị rất khác nhau nếu không muốn nói là đối nghịch: từ tả sang hữu, các
phong trào đối kháng hay lên tiếng cảnh cáo rằng toàn cầu hoá xâm phạm chủ quyền
của các quốc gia thậm chí đe dọa sự sống còn của các nhà nước dân tộc (Nation
States).
Đối
với phía tả, toàn cầu hoá đồng nghĩa với chủ nghĩa tự do cực đoan trong kinh tế
(ultra-liberalism). Trước sự bành trướng và sức mạnh khổng lồ của các đại
công ty đa quốc gia, các nhà nước phải giới hạn lại vai trò và phạm vi hoạt động
của mình và lại càng yếu thế hơn nữa khi phải tuân thủ các quyết định ràng buộc
của các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund
- IMF), Ngân hàng thế giới (World Bank) và Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization - WTO), vừa là công cụ vừa là hiện thân của chủ
nghĩa tự do cực đoan này.
Theo
phái hữu, nhất là ở Mỹ, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm khi luật quốc tế không
cho phép nhà nước bảo vệ quyền lợi các thành phần dân chúng qua các chính sách
hành chính hay pháp chế. Thí dụ mất chủ quyền hay được đơn cử nhất là việc
chính quyền Mỹ không được dùng đến các biện pháp đơn phương quen thuộc để o ép
các nước khác vì như thế vi phạm các qui định của WTO, hay phải chấp hành các
quyết định của bộ phận giải quyết tranh chấp của WTO sau các vụ kiện.
Điều
rõ ràng nhất là toàn cầu hoá đã đi kèm với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới,
như Internet và những công nghệ tiên tiến, thay đổi cục diện và mối tương quan
giữa các tác nhân : chính quyền, tổ chức quốc tế, doanh nhân, và xã hội công
dân. Trong bối cảnh đó, vai trò của các nhà nước dân tộc đã thay đổi thế nào,
chủ quyền quốc gia trong kinh tế có thật sự bị thương tổn không và cho đến mức
độ nào? Ở đây cần phân biệt chủ quyền (sovereignty) và quyền tự chủ (autonomy) tuy
trong công luận và sách vở chỉ thường dùng chữ chủ quyền để nói đến quyền tự chủ.
Sự lầm lẫn này dễ hiểu vì thật ra hai cụm từ này chỉ là hai mặt của một vấn đề:
chủ quyền là một khái niệm pháp lý, de jure, và qưyền tự chủ là sự
biểu hiện thực tiễn, de facto, của khái niệm ấy. Do đó
chữ chủ quyền thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả hai mặt này. Nếu
theo định nghĩa hẹp, như trong công pháp quốc tế, chủ quyền là quyền lực tối
cao ban hành và áp dụng các luật lệ và chính sách, cai quản mọi hoạt động xã hội
và chính trị trong một nước, thì có thể nói không nơi nào chủ quyền bị sứt mẻ,
kể cả trong những nước thành viên của Liên hiệp (LH) Châu Âu, vì chưa có hệ thống
nào thay thế, ở mức quốc gia, các nhà nước trong chức năng ấy. Nhưng việc các
nhà nước thật sự có chủ động tới đâu trong việc chọn lựa chính sách và các luật
lệ và biện pháp thi hành lại là chuyện khác. Quyền tự chủ ấy bị giới hạn bởi
nhiều ràng buộc và cản trở, ở mức độ quốc gia và quốc tế, do nhiều yếu tố, đáng
kể nhất là tình hình kinh tế và chính trị thế giới, tương quan lực lượng giữa
các nước và hệ thống pháp lý quốc tế.
Trong
bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự tương quan giữa quyền tự chủ trong kinh tế và
các chuẩn kinh doanh quốc tế, chuẩn ở đây định nghĩa là những qui tắc được đa số
công nhận hay bắt buộc phải theo, dẫu thành văn qua các hiệp ước song và đa
phương, các qui định hay chỉ đạo (guidelines) của các tổ chức quốc tế,
các điều lệ và tiền lệ (jurisprudence) của công pháp quốc tế, hay bất
thành văn qua các thông lệ (established practice) đã trở thành nguyên tắc
chung trong hoạt động và bang giao kinh tế giữa các nước, và cả các quyết định
đơn phương của một vài nước.
Quốc
gia, chủ quyền và cộng đồng quốc tế trong lịch sử
Bất
cứ tập thể nào khi hình thành đều đặt ra luật lệ để tổ chức cuộc sống chung,
tránh và giải quyết các mâu thuẫn xung đột. Hình thức tập hợp càng tinh vi, luật
lệ càng nhiều và càng chi tiết, càng giới hạn sự tự do của mỗi cá nhân. Tại
Châu Âu, mô hình tập hợp trên cơ sở một lãnh thổ quốc gia như hiện nay được coi
như xuất hiện vào thế kỷ thứ 15 khi vua Louis XI thống nhất toàn nước Pháp dưới
quyền cai trị của mình năm 1483. Nhà triết học và kinh tế gia Pháp Jean Bodin
là người đầu tiên nêu lên và phân tích khái niệm chủ quyền năm 1576, nhưng phải
đợi đến năm 1648, khi hai hiệp ước Westphalia được ký kết tại hai thành phố Đức
Munster và Osnabrück , chấm dứt cuộc chiến kéo dài 30 năm (Guerre de Trente
Ans) giữa các nước Âu Châu, vấn đề chủ quyền quốc gia mới được đặt ra như
khái niệm nền tảng của một "công pháp Âu Châu" để chi phối các quan hệ
giữa các nước liên can. Do đó các hiệp ước Westphalia được coi là điểm khởi đầu
của sự hình thành và tiến hoá của nền công pháp quốc tế hiện nay, và khái niệm
chủ quyền như ta thường hiểu hay được gọi là mô hình Westphalia.
Mô
hình Westphalia xây dựng trên tiền đề là mỗi quốc gia là một tác nhân của cộng đồng
quốc tế, bình đẳng với các nước khác và có toàn quyền tự chủ trong những sinh
hoạt phục vụ lợi ích của mình. Mỗi nước có toàn quyền định đoạt mọi việc trên
lãnh thổ của mình và không được can thiệp vào nội bộ nước khác. Nói cách khác,
chủ quyền quốc gia dừng lại ở biên giới giống như sự tự do của mỗi con người dừng
lại ở chỗ sự tự do của người khác bắt đầu. Và để được các nước công nhận chủ
quyền của mình, mỗi nước cũng phải công nhận chủ quyền của nước khác và chấp nhận
sự tự giới hạn ấy. Cũng như chấp nhận những giới hạn khác do những nghĩa vụ quốc
tế phải đảm nhận khi thoả hiệp với nước khác hay tham gia vào một hình thức tập
hợp đa quốc gia.
Song
song với đà tiến triển của khoa học, sự phát triển của kinh tế thế giới và của
các mối quan hệ liên quốc gia, nền công pháp quốc tế cũng trở thành một kho luật
ngày càng phong phú và chi tiết hơn. Mỗi hoạt động kinh tế mới hay phát triển
thành một lĩnh vực quan trọng của bang giao quốc tế đều dẫn đến một số qui tắc
thường được ghi thành luật quốc tế qua các hiệp ước đa phương. Tuy nhiên cho đến
cuối thế kỷ thứ 20, vị trí độc tôn của nhà nước vẫn là định đề cho mọi thảo luận
thương thuyết dẫn đến những qui tắc mới. Điểm khác biệt giữa thời kỳ hiện đại
và các thế kỷ trước đây là tốc độ ngày càng tăng của đà tiến hoá khiến những
thay đổi đem đến trong xã hội về nhiều phương diện trở thành thay đổi về bản chất
chứ không còn chỉ ở mức độ. Hiện tượng toàn cầu hoá từ vài chục năm nay đã từng
xảy ra trong lịch sử, nếu đo bằng sự tự do giao lưu thì trên vài phương diện
như quyền tự do đi lại của con người và các giao dịch tài chính, còn cao hơn ở
cuối thế kỷ thứ 19 và trước đệ nhất thế chiến, so với hiện nay. Nhưng sự xuất
hiện của Internet và những công nghệ mới, cộng với tốc độ tiến hoá của tình
hình chung đã đặt ra nhiều vấn đề mới, trong đó có vai trò của các nhà nước và
quan hệ giữa các nước trong cộng đồng quốc tế.
Vai
trò của nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu hoá
Đa
số các nhà phân tích đều nêu ra những thí dụ sau đây cho thấy khả năng chủ động
của các nhà nước đã giảm sút trên nhiều mặt, khiến quyền tự chủ cũng không còn
được nguyên vẹn: môi sinh, giao dịch tài chính, vệ sinh y tế và Internet.
Thảm
họa Tchernobyl năm 1988 là một cú sốc cho nhiều người bỗng thấy vấn đề môi sinh
quả là vô biên giới, một biến cố xảy ra ở cách cả ngàn cây số cũng đe doạ trực
tiếp mạng sống mỗi người, và không nhà nước nào có thể chế ngự được những hậu
quả chưa lường hết được cho dân mình. Trước đó đã có nhiều vụ ô nhiễm biển cả,
những "thuỷ triều đen" (marée noire) gây ra bởi tàu bè từ nước
khác đến gieo khốn khổ cho cả một vùng, nhưng đa số công chúng vẫn tặc lưỡi coi
như đấy là những bất trắc đáng tiếc nhưng khó tránh khỏi của sự phát triển kinh
tế, cái giá phải trả cho sự "tiến bộ" và phồn thịnh. Sau Tchernobyl
cái nhìn của số đông thay đổi hẳn: ưu tiên là bảo vệ môi trường và con người,
là thành lập một hệ thống pháp lý quốc tế để kiểm soát và phòng ngừa các tai hoạ
cho thiên nhiên. Đổi lại, cái giá sẵn sàng chấp nhận là giới hạn lại quyền tự
chủ quốc gia trước quyền lợi chung vì thiên nhiên là tài sản chung của nhân loại.
Luật quốc tế về môi trường dần dà hình thành như một lĩnh vực riêng biệt, một
môn học mới của công pháp quốc tế, sẽ còn tiếp tục phát triển nhiều trong thời
gian tới. Các hiệp ước đa phương về môi trường (multilateral environmental
agreement - MEA) vẫn tiếp tục được bàn thảo, ngay cả trong những tổ chức
thoạt nhiên có vẻ không liên quan gì đến vấn đề này như WTO. Các chính quyền
không còn có thể bỏ lơ vấn đề môi sinh khi hoạch định chính sách phát triển
kinh tế, và nhất là trong những nước nghèo, khó có thể cưỡng lại sức ép của
công luận và bất chấp các chuẩn quốc tế về môi trường.
Một
trong những biểu hiện của toàn cầu hoá hay được nhắc đến là các giao dịch tài
chính. Các thị trường tài chính quốc tế, khi tổng giá trị các giao dịch hàng
ngày còn cao hơn ngân sách quốc gia một năm của nhiều nước nghèo, quả là một sức
mạnh rất đáng kể, nhất là khi các giòng chảy tư bản có thể di chuyển rất nhanh
từ nước này sang nước khác, ảnh hưởng nặng nề lên giá trị đồng tiền và tình
hình kinh tế của cả một nước. Hơn thế nữa, với mức độ giao lưu và phụ thuộc vào
nhau rất cao hiện nay, sự khủng hoảng ở một nơi sẽ rất nhanh lan ra trong cả một
khu vực và có thể đi xa hơn nữa, qua ảnh hưởng giây chuyền nhân lên với tốc độ
của các phương tiện thông tin và giao dịch điện tử. Sự khủng hoảng tiền tệ ở Á
Châu năm 1997 cho thấy rõ sự bất lực của các nhà nước, không kiếm chế được ảnh
hưởng của các luồng vốn và phải tuân theo chỉ thị của IMF để ra khỏi bế tắc.
Cũng
như các thị trường tài chính và chứng khoán, các công ty đa quốc gia có thể bất
cứ lúc nào quyết định dời nơi sản xuất sang nước khác, gây ra thất nghiệp và
hàng loạt vấn đề kinh tế và xã hội khác, mà chính quyền sở tại không có cách
nào ngăn chận, ngoài vài biện pháp vá víu chủ yếu là nhằm trấn an dư luận trong
nước. Hiện tượng xuyên quốc gia (transnationalism) cho thấy rõ thế yếu của
các nhà nước, bị gò bó trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia, trong khi các đại
công ty và thị trường quốc tế tự do hoạt động trên bàn diện thế giới. Quan niệm
chủ quyền theo mô hình Westphalia thành vô nghĩa khi quyền lực của thị trường
vượt qua quyền lực của nhà nước, nhất là khi chính quyền ở vào thế phải ve vãn
các công ty hay khi chính sách kinh tế phụ thuộc vào sự phồn thịnh và lợi ích của
các công ty. Để thu hút đầu tư, các chính quyền địa phương và trung ương đua
nhau đề nghị những biện pháp giảm thuế miễn thuế, thành cả một sự cạnh tranh về
thuế má (tax competition) trong và giữa các nước. Các nhà
nguyên thủ quớc gia khi đi kinh lý nước khác bao giờ cũng được tháp tùng bởi một
đoàn các nhà doanh nghiệp và các hợp đồng thương mại được ký kết hay không
trong những dịp ấy được coi như cũng quan trọng bằng, nếu không hơn, các hoạt động
ngoại giao chính thức.
Vấn
đề vệ sinh y tế phần nào cũng vượt khỏi phạm vi kiểm soát của các nhà nước. Trước
bệnh Sida (Aids), các nhà nước bắt buộc phải hợp tác và cầu viện đến sự hợp tác
của nước khác, không nước nào có thể nghĩ rằng cứ bế quan toả cảng là tránh khỏi
hay khắc phục được hiểm họa này. Bệnh bò điên và bệnh sốt aptơ của súc vật cũng
bất chấp các biên giới quốc gia, đòi hỏi mỗi nước phải phối hợp với nhau, biện
pháp của nước này đương nhiên ảnh hưởng lên chủ trương của nước khác, chẳng nước
nào hoàn toàn chủ động trong việc quyết định chính sách mà còn phải tuân theo
các chuẩn của những tổ chức quốc tế như Office international des
épizooties (OIE) hay Uỷ Ban Codex Alimentarius của
tổ chức FAO (Food and Agriculture Organization) thuộc
Liên Hiệp Quốc.
Cuối
cùng, ở thời đại Internet, thế giới bước vào một không gian ảo xoá bỏ mọi biên
giới địa lý, mọi khoảng cách thời gian, đưa sự tự do giao thông lên đến mức gần
như tuyệt đối dường như vượt qua hẳn vòng kiểm soát các nhà nước. Cho tới nay
chưa bao giờ các nhà nước hình như mất chủ động như thế trước sự phát triển hết
sức nhanh và mạnh của cả một vùng kinh tế mang nhiều hình thức mới lạ, khó có
thể quản lý với những phương pháp và hệ thống sẵn có. Đây là đề tài cho rất nhiều
tranh cãi, và đa số kết luận rằng Internet trực tiếp đe doạ các thể chế chính
trị truyền thống và có thể cả khái niệm chủ quyền quốc gia, vì những lý do
chính sau đây.
Đặc
điểm của Internet là vừa toả rộng khắp toàn cầu vừa rất dễ thâm nhập đối với
dân chúng và, ngược lại với các hệ thống truyền tin khác như điện thoại, viễn
thông, phát thanh và truyền hình, hầu như thoát khỏi sự kiểm soát bằng các
phương pháp kỹ thuật của nhà nước. Không gian xi-be là một thế giới ảo nhưng có
hậu quả trong thế giới thực, các hoạt động xi-be xuất phát từ một địa hạt pháp
chế (jurisdiction) nhưng ảnh hưởng lan đến nhiều địa hạt pháp chế khác. Ảnh
hưởng lên nhiều nước là đặc tính của mọi hoạt động và giao dịch quốc tế nhưng
chỉ có Internet mới làm nảy sinh một hình thức văn hoá mới, xuyên quốc gia, một
nền văn hoá xi-be (cyber-culture) xây dựng trên khái niệm tự do toàn diện,
chối từ sự kiểm soát của bất kỳ thể chế nào, và thách thức ba chức năng truyền
thống của nhà nước: an ninh quốc gia, điều tiết hoạt động kinh tế và bảo vệ các
giá trị xã hội và luân lý. Đầu tiên, bất cứ nhóm chính trị hay tôn giáo cực
đoan, hay thành phần chống đối nào cũng có thể dùng Internet để khích động dư
luận trong một nước và tuyên truyền đến cả thế giới, có thể trở thành vấn đề an
ninh trật tự. Sau đó, sự phát triển của các giao dịch qua Internet cũng là bài
toán cho các chính quyền, một mặt cổ vũ những tiềm năng đầy hứa hẹn của ngành
thương mại điện tử, mặt khác lúng túng khi áp dụng cho lĩnh vực mới này những
phương pháp quản lý kinh tế cổ điển. Sự tranh cãi hiện nay về quyền thu thuế hoặc
truy tố các công ty Internet thuộc về một nước khác là một thí dụ. Cuối cùng,
Internet cũng thách đố một vai trò cơ bản khác của nhà nước là bảo vệ văn hoá
truyền thống và đạo đức xã hội. Đạo luật Mỹ về tính trong sáng trong thông tin
liên lạc (Communications Decency Act) nói lên sự lo âu của chính quyền trước
ảnh hưởng của các sản phẩm đồi trụy xi-be (cyberporn) lên sự lành mạnh của
xã hội. Ban hành ngày 8.2.1996, đạo luật này ngay lập tức bị các nhóm sử dụng
Internet (và Bill Gates!) kiện là phi hiến pháp và chỉ 4 tháng sau là bị đình
chỉ áp dụng khi ba quan toà liên bang quyết định là nó vi phạm Điều sửa đổi Một
của hiến pháp Mỹ (First Amendment). Tại Đức, chính quyền tìm cách cấm cản
các trạm Web của những nhóm tân Nazi để bảo vệ những giá trị dân chủ rất quan
trọng đối với xã hội Đức. Còn ở Singapore và Trung Quốc, nhà nước viện lý do bảo
vệ văn hoá dân tộc trước văn hoá ngoại lai hay trước âm mưu chống phá chính trị
để kiểm soát Internet.
Bốn
lĩnh vực nêu trên chỉ là vài trong nhiều thí dụ các lĩnh vực vượt ra khỏi khả
năng quản lý của một nước, do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp và điều tiết ở mức
đa hay siêu quốc gia và dẫn đến sự thành lập của các chuẩn quốc tế, giới hạn lại
quyền tự chủ của các quốc gia. Internet là lĩnh vực mới nhất nhưng đã bắt đầu
có một số chuẩn kỹ thuật như giao thức (protocol) TCP-IP do tổ chức Internet
Society (ISOC) soạn thảo, và tất cả các tổ chức quan trọng như WTO, Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and
Development - OECD), Tổ chức sở hữu tri thức thế giới (World
Intellectual Property Organization - WIPO), v.v., đều lập ra các nhóm làm
việc, uỷ ban để nghiên cứu, thảo luận về các đề tài liên quan đến Internet và
thương mại điện tử, sửa soạn cho việc lập các chuẩn quốc tế. Có thể nói tất cả
những lĩnh vực hoạt động kinh tế khác cũng đều được chi phối bởi một hệ thống
quản trị đa phương hoặc siêu quốc gia gồm các qui định, điều lệ và các tổ chức
quản trị những qui định ấy. Trong phạm vi bài này sẽ chỉ đi sâu vào hai trường
hợp điển hình nhất của vấn đề tương quan giữa quyền tự chủ quốc gia và chuẩn quốc
tế trong hệ thống ấy : tổ chức WTO và Liên hiệp Châu Âu.
Các
quốc gia và "luật WTO"
Như
đã nêu trên, một trong những cái "tội" lớn nhất của tổ chức WTO trước
mắt các phong trào chống đối là xâm phạm "chủ quyền" quốc gia. Có thể
nói trong hiện tượng "quản trị toàn cầu" (global governance)
hay được nhắc đến gần đây và cũng là một điểm hay bị công kích của toàn cầu
hoá, WTO có một vị trí và uy thế đặc biệt so với các tổ chức khác. Thương mại
là cái gì đụng chạm trực tiếp đến cuộc sống mỗi người và ngày nay liên quan đến
hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, cho nên vai trò của WTO càng nổi bật
thì càng là đề tài cho tranh cãi và cho cả hiểu lầm. Một trong những sự hiểu lầm
là vấn đề chủ quyền quốc gia, đã được đặt ra ngay từ năm 1948, khi Quốc Hội Mỹ
giờ phút chót không thông qua Hiến chương La Havana để thành lập tổ chức thương
mại quốc tế ITO vì một số dân biểu chống đối, nêu lên nguy cơ mất chủ quyền. Hiểu
lầm là vì cả tổ chức GATT ra đời thay cho ITO năm 1948 cũng như tổ chức WTO kế
thừa GATT từ 1995 đều không dính dáng đến khái niệm chủ quyền quốc gia. Thành
viên của GATT/ WTO không phải là các quốc gia mà là các chính quyền cai quản những
"lãnh thổ thuế quan có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh". Hồng
Kông không có chủ quyền quốc gia nhưng là thành viên sáng lập của GATT/WTO,
trong khi Trung Quốc sau 15 năm thương thuyết mới sắp sửa được gia nhập.
GATT/WTO không xây dựng trên nguyên tắc chủ quyền (sovereignty-based)
như các tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc mà trên thoả ước (treaty-based) với
những qui tắc và cách vận hành riêng. Nhưng, nếu xem như chủ quyền đồng nghĩa với
quyền tự chủ, theo định nghĩa rộng đã nêu ở phần đàu bài này, và xét rằng WTO dựa
trên khái niệm quyền tự chủ, thì chúng ta có thể tìm hiểu WTO có "xâm phạm
chủ quyền" vì giới hạn lại quyền tự chủ của các nước thành viên hay không.
WTO
có nhiệm vụ quản lý khoảng 30 hiệp ước và bị vong lục áp dụng cho hầu hết các
lĩnh vực kinh tế, chi phối không những 1/5 tổng sản xuất của thế giới được trao
đổi giữa các nước mà cả những hàng hoá và dịch vụ có thể không bao giờ đi vào
thương mại. Các điều lệ của WTO không chỉ nhằm vào các biện pháp ở biên giới mà
còn ảnh hưởng sâu sắc lên các cơ cấu pháp lệnh (regulatory structure)
quốc nội. Tất cả những luật lệ quốc nội liên quan đến quyền sở hữu tri thức, dịch
vụ tài chánh, tài trợ nông nghiệp, biện pháp khuyến khích đầu tư, hàng rào thuế
quan, chuẩn kỹ thuật trong xuất nhập khẩu, v.v và v.v. đều phải phục tùng những
kỷ luật do WTO ấn định. Qua những quyết định của hệ thống giải quyết tranh chấp
gọi tắt là DSU (Dispute Settlement Understanding), WTO đóng góp nhiều yếu
tố mới và quan trọng vào công pháp quốc tế. Do đó báo chí sách vở hay dùng cụm
từ "luật WTO" để chỉ hệ thống pháp lý do WTO khởi động và quản lý. Ảnh
hưởng của luật WTO lên quyền tự chủ các quốc gia có thể được phân tích qua ba
lĩnh vực hoạt động của WTO: Cơ chế duyệt các chính sách thương mại (Trade
Policy Review Mechanism - TPRM), các điều khoản của các hiệp ước, và hệ thống
DSU.
Cơ
chế TPRM
Mối
tương quan giữa quyền tự chủ trong chính sách kinh tế và chuẩn quốc tế được thể
hiện rõ nhất ở đây. Văn kiện thành lập cơ chế này, phụ lục 3 của Hiệp ước
Marrakesh thành lập WTO, nói rõ mục đích của TPRM như sau : " góp phần đảm
bảo là tất cả các thành viên sẽ tuân thủ đúng đắn các qui tắc, kỷ luật và giao
ước đã thoả thuận trong khuôn khổ các hiệp ước thương mại đa phương ... bằng
cách làm các chính sách và thủ tục thương mại của các thành viên trong suốt hơn
và được hiểu rõ hơn". Các nước thành viên WTO, thông qua Cơ quan duyệt các
chính sách thương mại (Trade Policy Review Body - TPRB),
thường xuyên xem xét các bản báo cáo định kỳ về từng nước, để kiểm tra xem các
chủ trương, chính sách, biện pháp và thủ tục của mỗi nước có phù hợp với luật
WTO không. Đây là một hình thức "phê bình lẫn nhau" (peer review),
tuy tương đối nhẹ nhàng và tránh đụng chạm đến chủ quyền nhưng cũng khẳng định
vị trí thứ yếu của các chính sách quốc gia, phải dần dà đồng nhất theo các qui
tắc chung, trước các chuẩn quốc tế. Quyền tự chủ bị giới hạn vì mỗi nước không
những phải tuân theo các chuẩn đã ấn định mà còn phải chịu sự giám sát thường
xuyên của tập thể các thành viên.
Các
điều khoản của các hiệp ước
Các
hiệp ước ký kết sau vòng đàm phán Uruguay, thường gọi là hiệp ước WTO hay hiệp
ước Uruguay Round, có rất nhiều điều khoản ràng buộc các thành viên, không chỉ
là các điều lệ phủ định (negative regulations) cấm không được
làm điều gì, mà còn có các điều lệ thực định (positive regulations) bắt
buộc phải làm điều nào đó. Mỗi hiệp ước được quản lý do một uỷ ban riêng của
WTO, và đều qui định các nghĩa vụ thông báo, cứ 6 tháng hay hàng năm, về những
biện pháp và chính sách quốc gia trong lĩnh vực liên quan. Các thành viên khác
có thể chất vấn và đặt câu hỏi cho đến khi thoả mãn với các câu trả lời. Đây
cũng là một hình thức giám sát lẫn nhau, nước nào cũng có quyền "hạch hỏi"
nước khác nhưng ngược lại cũng phải chịu sự kiểm soát chung và chấp nhận những
ràng buộc rất chi li giới hạn quyền tự chủ của mình.
Điểm
sơ qua các hiệp ước WTO, chúng ta thấy quyền chủ động các quốc gia bị giới hạn
một cách hết sức chi tiết và cụ thể trong nhiều lĩnh vực:
·
Nông nghiệp: các chính quyền không được tài trợ các nhà
sản xuất nông nghiệp nội địa và trợ giá nông sản xuất khẩu nhiều hơn các mức tối
đa tính trên các chi tiêu của nhà nước, và phải cam kết sẽ dần dần giảm các viện
trợ này theo một lịch trình và tỷ số nhất định. Hiệp ước về nông nghiệp liệt kê
tất cả những hình thức viện trợ thuộc thẩm quyền của WTO, cách tính các mức tài
trợ tối đa cho phép, những ngoại lệ, những điều kiện để được miễn thi hành các
qui tắc của WTO v.v.
·
Hiệp ước về hàng rào kỹ thuật (technical barriers to
trade - TBT):
tất cả các chuẩn kỹ thuật áp dụng trong nước phải được công bố cho dân chúng và
thông báo lên WTO, không được có tác dụng cản trở ngoại thương, phải bãi bỏ khi
không còn cần thiết, phải tương ứng với chuẩn quốc tế, v.v. Mỗi nước phải lập một
cơ quan thông tin (enquirypoint) để trả lời các câu hỏi của nước khác,
cung cấp thông tin tài liệu theo yêu cầu, v.v.
·
Hiệp ước về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(trade related investment measures - TRIMs): các nhà nước không
được ép các nhà đầu tư nước ngoài phải dùng tư liệu nội địa tới một tỷ lệ tối
thiểu ấn định, vì như thế vi phạm qui tắc công dân thương mại (national
treatment) của WTO. Qui tắc này đòi hỏi các quốc gia không được phân biệt đối xử
giữa doanh nghiệp bản xứ và doanh nghiệp nước ngoài.
·
Hiệp ước về các phương diện của quyền sở hữu tri thức
liên quan đến thương mại (trade-relatedaspects of intellectual property
rights - TRIPs) :
các chính quyền phải áp dụng những chuẩn tối thiểu để bảo vệ quyền sở hữu tri
thức, bằng cách ban hành các đạo luật mới hay sửa đổi luật hiện hành để phù hợp
với các điều lệ của WTO, phải thiết lập các toà án, thủ tục để thực thi quyền sở
hữu tri thức.
·
Hiệp ước về giá trị thuế quan (customs evaluation): các nhà nước phải
đánh thuế hải quan dựa theo giá trị kê khai trong các hoá đơn vận chuyển, không
được tuỳ nghi chọn cách tính toán mà phải theo các nguyên tắc kế toán thông dụng
(generally accepted accounting principles - GAAP). Các nguyên tắc GAAP
thường là những chuẩn được áp dụng tại các nước đã phát triển.
·
Hiệp ước về các biện pháp y tế và vệ sinh thực vật (sanitary
and phyto-sanitary measures - SPS): các biện pháp SPS phải tương ứng với
chuẩn quốc tế, tương ứng với tình hình y tế của nơi sản xuất và nơi nhập hàng
hoá, phải dựa trên cơ sở khoa học, và không được có tác dụng cản trở thương mại
quá mức độ "cần thiết".
V.v
và v.v.
Tất
cả các hiệp ước WTO, ngoài những điều khoản áp dụng riêng cho từng lĩnh vực, đều
nhắc lại các qui tắc cơ bản chung : không phân biệt đối xử (giữa các thành viên
và giữa trong nước/ngoài nước), trong suốt (công bố cho dân chúng biết và thông
báo lên WTO), không cản trở thương mại, luật quốc gia phải phù hợp với luật
WTO. Và tuy mỗi năm có tới hàng ngàn luật lệ, biện pháp, thủ tục đủ loại được
các thành viên thông báo lên WTO, đây vẫn không phải chỉ là một việc làm hình
thức, mà đáp ứng một sự giám sát rất chặt chẽ như trong thí dụ nhỏ sau đây.
Tháng 1.2001, Bỉ thông báo lên uỷ ban chuyên lo về TBT của WTO một dự luật nhằm
khuyến khích "ý thức trách nhiệm xã hội trong sản xuất" bằng cách lập
ra một nhãn hiệu cho các sản phẩm được sản xuất một cách phù hợp với những chuẩn
mực của Tổ chức lao động thế giới (International Labour Organization
- ILO). Thế là có khoảng hơn một chục nước đặt ngay vấn đề tại các buổi họp
sau đó của uỷ ban TBT, khuyến cáo là dự luật này sẽ vi phạm luật WTO, đòi hỏi
giải thích và yêu cầu Bỉ rút lại dự luật này. LH Châu Âu, đại diện cho Bỉ, đã
phải phân trần là đây chỉ là một dự thảo, chỉ liên quan đến Bỉ chứ không áp dụng
trong toàn LH Châu Âu, và sẽ được sửa đổi theo các góp ý để không đi ngược lại
các qui tắc chung.
Quyền
tự chủ trên phương diện đối nội cũng bị giới hạn. Theo qui tắc cơ bản của WTO về
chế độ công dân thương mại (national treatment), các nhà nước không được
ưu đãi công ty bản xứ so với công ty nước ngoài, dẫu là trong chính sách thuế
má, qua tài trợ hay bất cứ đặc lợi nào. Sức ép của các công ty ngoại quốc đòi hỏi
được hưởng đầy đủ chế độ này sẽ góp phần dần dà đồng nhất hoá các chính sách quốc
gia theo mô hình của các chuẩn quốc tế. Mặt khác, vì phải đảm bảo trước WTO
tính hợp lệ với luật quốc tế, chính quyền trung ương phải chỉ thị cho các địa
phương tuân theo các chuẩn quốc tế, do đó cũng không còn toàn quyền định đoạt
trong nội bộ. Và nếu sơ sót thì có thể sẽ bị đưa ra kiện trước WTO, với tất cả
những phiền hà và tốn kém của một vụ tranh chấp.
Hệ
thống giải quyết tranh chấp DSU
Đây
là đặc thù chính, điểm mạnh nhất của WTO, và cũng thể hiện rõ nhất đối với bên
ngoài vị trí đặc biệt của WTO đối với các nước thành viên, có khả năng "vi
phạm chủ quyền quốc gia" hơn mọi tổ chức quốc tế khác. Ở đây cũng có nhiều
tranh cãi. Người ủng hộ thì thấy hệ thống DSU là một đóng góp quan trọng cho nền
thương mại đa phương vì bảo đảm các luật lệ và chính sách kinh tế quốc gia sẽ ổn
định, thuần nhất và công minh. Kẻ chống lại thì thấy DSU củng cố và tập trung
quyền lực của giới thương mại vào một nhóm "quan toà" siêu quốc gia,
thông qua trong bí mật những quyết định quan trọng bó buộc các chính quyền, bất
kể chính sách quốc gia, quyền lợi dân chúng hay thậm chí các tập tục hay truyền
thống của một nước. Chỉ có một điều tất cả đều đồng ý: các quyết định của hai bộ
phận thuộc DSU đã và sẽ ảnh hưởng sâu rộng lên chính sách các quốc gia.
Cả
hai bên đều có lý nhưng mỗi bên chỉ đúng một nửa. Thực tế DSU có cả hai mặt: vừa
góp phần củng cố hệ thống thương mại và pháp lý đa phương, vừa có khả năng ép
buộc một nhà nước phải thay đổi chính sách dẫu có đi ngược lại ý kiến của đa số
công chúng trong nước. Trong tất cả các vụ tranh chấp đưa ra trước WTO, nhóm hội
thẩm (panel) lập ra để phân xử mỗi vụ đều kết luận trong bản báo cáo là
bên "thua kiện" phải rút lại hay thay đổi biện pháp bị tố cáo để hợp
lệ WTO. Để được WTO xét xử, mỗi đơn kiện phải dựa trên một cơ sở pháp lý. A chỉ
có thể kiện B vì B vi phạm luật lệ, chứ chỉ vì bực mình nhau thì không đủ. Như
đã nói ở trên, bất cứ hình thức tập hợp nào cũng kèm theo luật lệ nhưng, vì cho
phép các thành viên dùng đến biện pháp trừng phạt kinh tế nếu "đối
phương" không chấp hành quyết định phân xử đã thông qua, WTO là tổ chức
duy nhất có khả năng cưỡng bức thành viên phải thi hành những qui định chung.
Quyền tự chủ quốc gia bị giới hạn ở nhiều mặt, bằng nhiều cách, nhưng không ở
đâu thể hiện rõ rệt và đánh mạnh vào tâm lý công chúng như trong các vụ tranh
chấp trước WTO. Khi một cường quốc như Mỹ phải phân trần trước các nước khác về
một chính sách của mình và phải sửa đổi luật để tuân thủ quyết định của một
nhóm hội thẩm chỉ gồm 3 luật gia do WTO chọn, thì làm sao các thành phần chống
đối, tả hay hữu, có thể không kêu lên là Mỹ đã bị xâm phạm chủ quyền? Chả thế
mà một trong những điều kiện quốc hội Mỹ đưa ra để phê chuẩn các hiệp ước
Uruguay, dẫn đến sự thành lập WTO, là Mỹ sẽ rút khỏi WTO nếu bị thua kiện quá 3
lần.
Tuy
nhiên Mỹ đã thua kiện quá 3 lần từ lâu nhưng vẫn không thấy nói đến rút ra khỏi
WTO, cũng như chưa thấy nước nào tỏ ý muốn ra khỏi tổ chức. Ngược lại có gần 30
nước tiếp tục thương thuyết để gia nhập WTO, không nước nào coi nhẹ vấn đề chủ
quyền, nhất là các nước lớn như Trung Quốc và Liên Bang Nga, và cả nước bé với
tinh thần dân tộc cao như Việt Nam. Lý do đơn giản là nước nào cũng chấp nhận
khả năng có thể phải tự giới hạn lại quyền chủ động của mình để đổi lại được hưởng
những lợi ích của sự hội nhập và bảo vệ quyền lợi của mình trong khuôn khổ pháp
lý đa phương. Cũng vì lý do ấy mà các nước Đông Âu, ngay sau khi hệ thống xã hội
chủ nghĩa sụp đổ tại Âu Châu cuối thập niên 1980, đã bắt đầu thương thuyết để
gia nhập LH Châu Âu trong khi cái "giá" phải trả về mặt quyền tự chủ
còn cao hơn gấp bội việc gia nhập WTO.
Liên
hiệp Châu Âu, phòng thí nghiệm cho một mô hình quản trị toàn cầu
Tiền
thân của LH Châu Âu là Cộng đồng (CĐ) Châu Âu (Communautés européennes -
CE) ra đời ngày 1.1.1958 sau khi 6 nước thành viên của Cộng đồng than
sắt Châu Âu (Communauté européenne du charbon et de l'acier - CECA) ký
hai hiệp ước Rome để thành lập một tổ chức về năng lượng hạt nhân (Communauté
européenne de l'énergie atomique - Euratom) và nới rộng tổ chức CECA ra các
lãnh vực kinh tế khác thành một Cộng đồng kinh tế Châu Âu (Communauté
économique européenne - CEE). Euratom và CEE cộng lại thành CĐ Châu Âu, cho
đến năm 1972 vẫn chỉ có sáu nước sáng lập là Bỉ, Tây Đức, Hà Lan, Lục Xâm Bảo,
Pháp và Ý, nên được quen gọi là Châu Âu - 6 (Europe des Six). Nước Anh
tuy hai lần được mời tham gia, vẫn từ chối và năm 1959 thành lập riêng một tổ
chức khác (European Free Trade Association - EFTA), lỏng lẻo hơn, ít tập
trung hơn, với 6 nước Tây Âu khác: Áo, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển
và Thuỵ Sĩ. EFTA sau đó đón nhận thêm Iceland (1970), Phần Lan (1961) và
Liechtenstein (1991). Tuy nhiên theo xu thế hội nhập ở Âu Châu, các thành viên
của EFTA dần dần xin gia nhập CĐ Châu Âu: Anh và Đan Mạch (1972), Bồ Đào Nha
(1985), Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển (1995), khiến EFTA ngày nay chỉ còn 4 nước
Iceland, Liechtenstein, Na Uy, và Thụy Sĩ.
Ngoài
các nước EFTA kể trên, Ái Nhĩ Lan, Hy Lạp, Tây Ban Nha cũng gia nhập CĐ Châu
Âu, khiến Châu Âu-6 thành 9, rồi 10, 12 và bây giờ 15. Ngoài ra hiện nay có 13
nước Tây Ấu và Đông Âu đã chính thức đệ đơn xin gia nhập và đang ở vào những
giai đoạn khác nhau của quá trình thương thuyết. Ngoài chiều rộng (số thành
viên), CĐ Châu Âu cũng phát triển chiều sâu, đưa sự hội nhập ngày càng cao về mức
độ và bao quát về lãnh vực, cho đến khi trở thành một liên hiệp kinh tế gần như
toàn diện, để tiến đến thống nhất tiền tệ và, trong tương lai xa hơn, thống nhất
về cả chính trị và xã hội. Hiệp ước Maastricht ký ngày 7.2.1992 không chỉ đổi
tên của CĐ Châu Âu thành LH Châu Âu, với sự hoàn tất của một quá trình dài cải
tổ và củng cố các cơ cấu, mà còn đánh dấu một bước tiến mới trong xu thế hội nhập
ở Châu Âu và cả một sự thay đổi tư duy về vấn đề này. Để có hiệu lực, Hiệp ước
Maastricht phải được dân chúng các nước thành viên chấp thuận qua biểu quyết (referendum).
Quá trình vận động dân chúng kéo dài cả mấy năm và là cả một cuộc tranh luận
sôi nổi giữa các phe chống và phe ủng hộ, xoay quanh một số đề tài trong đó được
nhắc đến nhiều nhất là vấn đề chủ quyền quốc gia, sự phân bố quyền lực giữa các
nước thành viên và các cơ cấu của cộng đồng, tính dân chủ hoặc phi dân chủ của
cách vận hành của cơ chế chung, v.v.
Có
thể nói chủ quyền quốc gia, ngay từ những ngày đầu tiên và cho đến bây giờ, vẫn
là vấn đề cơ bản của LH Châu Âu, một đề tài tranh cãi thường xuyên. Thụy Sĩ và
Na Uy chính thức đệ đơn gia nhập năm 1992 nhưng hồ sơ này bị gác lại vô thời hạn
sau khi dân chúng hai lần biểu quyết chống, với tỷ lệ rất khít nói lên sự phân
vân của dư luận trước những lý lẽ trái ngược nhau về lợi ích của hội nhập và
cái giá về chủ quyền. Nước Anh không lúc nào không tranh luận trong nội bộ về lợi
và hại của việc tham gia vào LH Châu Âu, cả hai đảng Lao Động vả Bảo Thủ đều có
khuynh hướng chống (Eurosceptics) và thuận (pro-European). Gần
đây nhất là các bài diễn văn của thủ tướng Đức Gerhard Shröder và bộ trưởng ngoại
giao Joschka Fischer, tháng 5.2001, đề nghị xây dựng trong 10 năm sắp đến LH
Châu Âu thành một liên bang hoà nhập tất cả các quốc gia trong một thể chế
chính trị duy nhất, với một chính quyền trung ương đặt dưới sự kiểm soát của một
quốc hội toàn Châu Âu. Đáp lại đề nghị này dĩ nhiên là sự dè dặt dễ hiểu của
các thủ tướng Anh và Pháp, Tony Blair và Lionel Jospin. Người Đức, quen sống với
chế độ liên bang, dễ dàng ủng hộ dự án này trong khi dân chúng Pháp, với truyền
thống nhà nước tập trung (từ thời vua Louis XI, thế kỷ thứ 15!), đương nhiên ít
phấn khởi trước viễn tượng nhà nước dân tộc bị tan loãng trong một thể chế siêu
quốc gia. Ngược lại, Đức lại là một trong nước chống lại mạnh mẽ dự án thống nhất
tiền tệ, vì đồng Deutsche Mark vừa biểu hiện sức mạnh của kinh tế Đức vừa là sự
tự hào của một dân tộc bại trận sau Đệ nhị thế chiến nhưng đã kiên trì xây dựng
lại, qua vị trí kinh tế, uy thế chính trị của mình. Thay thế đồng Deutsche Mark
bằng đồng Euro cũng khó chấp nhận đối với dân chúng Đức như việc truất phế Nữ
Hoàng đối với dân Anh hay sự lu mờ của một nhà nước kế thừa truyền thống cộng
hoà (tradition républicaine) của cách mạng 1789 đối với dân Pháp.
Tuy
thế LH Châu Âu vẫn tiếp tục phát triển và củng cố các cơ cấu của mình, càng
ngày càng đi xa trong sự hội tụ. Từ Thị trường chung của những năm đầu đến Định
ước duy nhất Châu Âu (European Single Act) năm 1986 nới rộng
sự tự do giao lưu, không chỉ cho hàng hoá, mà còn cho dịch vụ, vốn và chuyển dịch
của con người, đến không gian Schengen (1995) xoá bỏ các giới tuyến giữa các nước
tham gia, bước đầu cho việc hình thành một không gian chính trị chung, quá
trình xây dựng Châu Âu là thí dụ điển hình của những giằng co giữa những động lực
khác nhau trong một xu thế. Mỗi bước tiến trong việc thống nhất hoá đều gặp sức
kháng cự của nước này hay nước kia, mỗi hiệp ước đưa ra cho dân chúng biểu quyết
đều có nơi này bác, nơi kia thuận. Có thể nói chưa có hình thức tập hợp quốc
gia nào đi xa như LH Châu Âu trong việc xây dựng một thể chế siêu quốc gia và
chuyển nhượng chủ quyền quốc gia cho các bộ phận siêu quốc gia. Do đó nhiều nhà
phân tích coi LH Châu Âu như một phòng thí nghiệm cho các mô hình quản trị đa phương,
trong viễn tượng thế giới đi đến một hình thức quản trị toàn cầu.
Một
mô hình quản trị nhiều tầng
Cách
vận hành đặc biệt của LH Châu Âu được một nhà phân tích gọi là mô hình quản trị
nhiều tầng (multi-level governance) vì dựa trên một cấu trúc phức tạp
phân định quyền hạn của mỗi bộ phận: các nước thành viên, Ủy ban Châu Âu (European
Commission) đóng vai trò hành pháp, Hội Đồng Châu Âu (European Council)
- bộ phận chính trị gồm các quốc trưởng hay thủ tướng -, Quốc Hội Châu Âu, Hội
đồng liên hiệp - gồm các bộ trưởng đại diện các chính phủ - , Toà án Châu Âu và
Ngân hàng trung ương Châu Âu. Có thể nói LH Châu Âu là một kiến trúc lập lại đầy
đủ các bộ phận cai trị của một nước, theo nguyên tắc phân quyền giữa lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quyền lực được chia thành nhiều tầng, hàng ngang theo địa
hạt và hàng dọc giữa các quốc gia và Liên hiệp.
Sự
phân định quyền hạn giữa các nước và các bộ phận chung dựa trên hai nguyên tắc
cơ bản: bổ trợ (subsidiarity) và tương xứng (proportionality). Bổ
trợ có nghĩa là việc gì có thể giải quyết ở cấp thấp thì không thuộc quyền hạn
của cấp trên. Nguyên tắc này giới hạn thẩm quyền của các bộ phận chung vào những
lĩnh vực vượt ngoài khả năng giải quyết tối ưu của các quốc gia. Tương xứng có
nghĩa là các bộ phận của Liên hiệp chỉ hành động trong chừng mực cần thiết để đạt
các mục đích chung, và các biện pháp đề ra không được quá nặng nề so với mục
đích của chúng. Hai nguyên tắc này giới hạn quyền lực của các bộ phận chung để
bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng vấn đề là ở chỗ định nghĩa, và ai định nghĩa,
lĩnh vực nào vượt quá khả năng giải quyết của một nước và thế nào là chừng mực
cần thiết. Trong thực tế, nhất là với hiện tượng toàn cầu hoá, hầu như mọi vấn
đề quan trọng nhất đều thành lĩnh vực thẩm quyền của Liên hiệp, dần dà bao gồm
cả những vấn đề nhỏ bé nhất, miễn là liên quan đến các hoạt động kinh tế.
Tầm
quan trọng của Liên hiệp so với các nước thành viên có thể đo lường qua vài con
số: trong khi tổng số các đạo luật ban hành hàng năm trong mỗi nước không thay
đổi mấy từ những năm 1960, tổng số các chỉ thị (directives), điều lệ (regulations)
và quyết định của Liên hiệp thông qua mỗi năm tăng vọt từ 36 năm 1961 đến 800
năm 1986. Luật liên hiệp (Community law) đương nhiên có hiệu lực trong
các nước thành viên và với đà phát triển tiếp tục tăng nhanh này, so với luật
quốc gia thì càng ngày càng có sức nặng hơn. Năm 1996, có tới 409 ủy ban chỉ lo
về việc quản lý và giám sát sự thực thi các quyết định của Hội đồng liên hiệp
trong các nước thành viên. Trong một số lĩnh vực, các nhà nước hầu như chỉ còn
việc truyền đạt đến các cơ quan nội địa những quyết định đã thông qua tại
Bruxelles, và quản lý sự thi hành.
Quyền
lực của LH Châu Âu giới hạn quyền tự chủ của các nước thành viên đã đành, ngay
cả các nước đứng ngoài cũng bị ảnh hưởng. Thụy Sĩ, tuy không là thành viên và
chưa biết bao giờ mới thuyết phục được dân mình đồng ý xin gia nhập, nhưng vì mối
quan hệ thương mại chặt chẽ, bắt buộc phải thương thuyết các hiệp ước song
phưong và do đó phải điều chỉnh nhiều biện pháp, chính sách theo các đòi hỏi của
Liên hiệp. Trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Liên hiệp, luật lệ Thụy Sĩ
phải được sửa đổi để phù hợp với các chuẩn Âu Châu (euro-compatible). Đối
với các nước muốn xin gia nhập, Liên hiệp đề ra một số điều kiện, gọi là tiêu
chuẩn Copenhagen vì được thông qua tháng 6.1993 tại hội nghị thượng đỉnh ở
thành phố này. Thứ nhất, tiêu chuẩn chính trị: phải có các thể chế ổn định bảo
đảm dân chủ, pháp trị, nhân quyền và tôn trọng quyền lợi các thiểu số. Thứ nhì,
tiêu chuẩn kinh tế: phải có một nền kinh tế thị trường hoạt động tốt. Thứ ba,
tiêu chuẩn hội tụ: phải tán thành mọi mục đích kinh tế, chính trị và tiền tệ của
Liên hiệp và nhất là phải đưa vào luật quốc gia toàn bộ khung pháp chế của Liên
hiệp, gọi là Community acquis, tức là tất cả những luật lệ, quyết định,
và hiệp ước quốc tế ký kết ở mức Liên hiệp và giữa các nước thành viên, cả thảy
là hơn 80 000 trang văn kiện pháp lý. Hơn nữa, cả ba tiêu chuẩn đều hoàn toàn bắt
buộc, không có gì có thể thương thuyết cả, và là điều kiện tiên quyết phải hội
đủ trước khi gia nhập LH Châu Âu.
Như
thế, quyền tự chủ của một quốc gia còn là bao khi gần như tất cả mọi vấn đề, lớn
nhỏ, đều được qui định chi tiết, phải thế này, không được thế kia, dưới sự giám
sát chăm chú của các thể chế đa phương hay siêu quốc gia. Ngay cả các nước độc
lập với tổ chức vì còn đứng ngoài, nếu muốn gia nhập hay giữ mối bang giao,
cũng đều phải chịu những bó buộc ấy. Thật ra, nói cho cùng, một khi đã tự nguyện
muốn tham gia vào một hệ thống như WTO hay LH Châu Âu để hưởng những quyền lợi
dành cho thành viên, thì chấp nhận những điều kiện khắt khe ấy cũng chỉ là luật
chơi, có chơi có chịu là chuyện bình thường. Nhưng cái không bình thường lắm, đối
với người thường dân, là một số hình thức giới hạn quyền tự chủ của nhà nước
trong những hoàn cảnh khác, oái ăm hơn, như các điều kiện đặt ra bởi các tổ chức
tài chính như IMF và Ngân hàng thế giới, và các can thiệp đa phương hoặc đơn
phương vào nội bộ của một nước.
Hệ
điều kiện, từ áp lực kinh tế sang ảnh hưởng chính trị
Hệ
điều kiện (conditionality) là chiến lược cơ bản của một số tổ chức, nhất
là IMF và Ngân hàng thế giới, nhằm ép một quốc gia thay đổi chính sách, tuân
theo một số điều kiện để được giúp đỡ tài chính. Về hình thức, hệ điều kiện là
một sự thoả thuận qua đó một chính quyền cam kết sẽ áp dụng một số biện pháp
qui định để được viện trợ. Trong các thoả thuận cho vay vốn (credit
arrangements) của IMF chẳng hạn, có ba loại điều kiện: thứ nhất, các điều
kiện tiên quyết, phải hội đủ, trước khi thoả thuận được ký. Thứ nhì, các tiêu
chuẩn thi hành (performance criteria) để xét xem chính quyền nhận vốn có
chấp hành nghiêm chỉnh mới được tiếp tục vay. Thứ ba là một số điều kiện phụ,
ghi trong thoả thuận, nhưng ít có tính cách ràng buộc hơn. Hệ điều kiện thể hiện
rõ ràng nhất sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào chính sách nội bộ của một
nước, là thí dụ "xâm phạm chủ quyền quốc gia" hiển nhiên nhất đối với
công chúng, và do đó cũng là điều oán trách nhất của nhiều người đối với IMF và
Ngân hàng thế giới, hai tổ chức Bretton Woods.
Khái
niệm hệ điều kiện tuy đi liền với các tổ chức Bretton Woods nhưng đã có từ trước,
ít ra là khi Hiệp hội các quốc gia (League of Nations), tiền thân của
Liên Hiệp Quốc, ấn định một số điều kiện trong các chương trình cứu trợ Hungary
và Áo năm 1922 và 1923, sau sự tan rã của Vương quốc Áo-Hung dưới triều đại
Habsburg. Hai chương trình này lúc ấy đã đặt ra những chuẩn mực không khác gì
các tiêu chuẩn hiện nay và cũng đã bị trách cứ một cách gay gắt là quá áp đặt
và vi phạm chủ quyền quốc gia y như các chương trình của IMF và Ngân hàng thế
giới ngày nay. Do đó, những người sáng lập ra hệ thống Bretton Woods, trong đó
có John Maynard Keynes, cũng muốn thiết lập một hình thức cứu trợ tự động hơn,
ít lệ thuộc vào các điều kiện hơn. Tuy thế Keynes cũng phải chấp nhận nguyên tắc
hệ điều kiện, mà ông gọi đùa là sự chăm lo ưu ái nhưng kẻ cả ("being
grand-motherly"). Có thể nói sự "chăm lo" này càng ngày càng
ít ưu ái và càng nhiều kẻ cả, với sự phát triển của hệ điều kiện ra ngoài lĩnh
vực thuần kinh tế để bao gồm cả những đòi hỏi chính trị.
Tại
Ngân hàng thế giới, hệ điều kiện xuất hiện vào những năm cuối nhiệm kỳ của chủ
tịch Robert Mc Namara, đánh dấu một hướng mới. Khác với các hợp đồng vay vốn
cho dự án (project lending) áp dụng cho tới lúc ấy, những hợp đồng vay vốn
để điều chỉnh cơ cấu (structural adjustment loan) nhằm thúc đẩy cải tổ một
hay nhiều khu vực kinh tế, thậm chí cả nền kinh tế quốc gia. Các chương trình
cho vay vốn (program lending) của IMF cũng kèm theo các điều kiện nhằm mục
đích tương tự. Cuối thập niên 1980, có hơn 70 nước thế giới thứ ba phải thi
hành các chương trình cải tổ của IMF và Ngân hàng quốc tế, thường có những đòi
hỏi sau đây:
·
giảm
hẳn chi phí nhà nước, trên nguyên tắc để kiềm chế lạm phát và giảm vay nợ,
nhưng hậu quả thực tế là cắt các ngân sách giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội,
giảm biên chế nên tăng thất nghiệp,
·
mở
cửa thị trường cho hàng hoá và đầu tư nước ngoài, để bắt các ngành sản xuất nội
địa phải cải tổ, hữu hiệu hơn, dưới sức ép của cạnh tranh,
·
tư
nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, phi qui chế hoá (deregulation) để điều
tiết hoạt động kinh tế qua cơ cấu thị trường thay vì qua sự can thiệp của nhà
nước,
·
phá
giá đồng tiền để tăng lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu,
·
giảm
lương và bãi bỏ hoặc hạn chế các cơ cấu bảo vệ người lao động (các điều khoản cấm
sa thải hay ấn định mức lương tối thiểu) bị coi là cản trở sự giao lưu của tư bản
nội địa và nước ngoài.
Những
đòi hỏi này đương nhiên khó hợp lòng dân, nhất là khi làm đời sống khó khăn hơn
nữa cho nhiều thành phần dân chúng. Trong các nước áp dụng triệt để các biện
pháp này, thường bị gọi mỉa mai là "cháu ngoan chú IMF" (les bons
élèves du FMI), xuất khẩu có tăng, đầu tư nước ngoài có tăng, cán cân thu
chi và trao đổi có thể được ổn định, lạm phát giảm, nhưng cái giá về mặt xã hội
rất cao, với sự nghèo đói của rất nhiều người. Về mặt chính trị, chính quyền mất
uy tín trước người dân khi tỏ ra bất lực trước các đòi hỏi của bên ngoài, phải
phục tùng để được chi viện. Vị thuốc đắng của các tổ chức Bretton Woods, chưa
biết về lâu dài sẽ giã tật được bao nhiêu nhưng trước mắt đã làm cho rất nhiều
bệnh nhân ngất ngư.
Cũng
vì thế và để tô lại hình ảnh của mình trong công luận, IMF và Ngân hàng thế giới
cũng đã xem xét lại, đánh giá hiệu quả của hệ điều kiện cho tới nay. Và sau khi
công nhận là hình thức ép buộc qua điều kiện cũng chỉ có hiệu quả tương đối, cả
hai tổ chức đã chuyển sang một cách nhìn mới với một số khái niệm mới. Ngân
hàng thế giới đặt trọng tâm vào việc khuyến khích các nước quản lý tốt hơn, và
dựa vào khái niệm quản trị tốt (good governance) để đánh giá thành quả
và quyết định tiếp tục viện trợ hay không. IMF, ngoài khái niệm quản trị tốt,
còn đưa ra khái niệm "tự quản tự giác" (ownership) trong việc
thi hành các chương trình ký kết với tổ chức: các chính quyền không còn là tác
thể của các chỉ đạo từ trên ban xuống mà là chủ thể tích cực thực hiện những biện
pháp cần thiết trong lợi ích của mình. Nhìn như thế, các chính quyền quốc gia
là đối tác (partner), trông đường hoàng hơn là ở vị trí kẻ mang ơn nên
phải qui phục, và mấy chữ "tự quản tự giác" cũng dễ nghe hơn vì gần
gũi với tự chủ và chủ quyền, và IMF có vẻ bớt kẻ cả để trở lại một hình ảnh ưu
ái hơn.
Đây
không phải chỉ là thay đổi về ngôn từ mà cũng đánh dấu một sự chuyển hướng nhất
định của các tổ chức Bretton Woods sau khi rút ra bài học về thái độ kiêu căng
của mình. Nhất là khi sự khủng hoảng kinh tế vẫn kéo dài trong nhiều nước áp dụng
các chương trình điều chỉnh cơ cấu chứng minh sự thất bại của các phương án do
các nhà kinh tế của IMF đề ra. Tuy nhiên, bản chất của vấn đề vẫn thế, hệ điều
kiện vẫn là yếu tố then chốt trong quan hệ giữa các tổ chức và những nước cần đến
sự chi viện. Các nước cầu cứu đến IMF và Ngân hàng thế giới vẫn ở vào thế phải
tuân theo các chỉ đạo và chịu sự giám sát của hai tổ chức. Sự can thiệp có thể
bớt thô bạo, cách dùng chữ tôn trọng người đối tác hơn, IMF và Ngân hàng thế giới
để ý hơn đến phản ứng của công luận, và đấy là những bước tiến. Song quyền quyết
định vẫn ở phía người giữ túi tiền, ban phát hay không còn tuỳ theo những điều
kiện do chính anh ta đưa ra.
Đáng
nói nhất là khi lồng thêm vào khái niệm quản trị tốt, hệ điều kiện đã chính thức
phát triển ra ngoài lĩnh vực kinh tế để mang tính chất chính trị. Thật ra,
khuynh hướng này đã có từ đầu, vì kinh tế và chính trị có bao giờ đi xa nhau,
nhưng cho tới gần đây yếu tố chính trị tương đối gián tiếp và hàm ẩn hơn. Có thể
nói sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chỉ để lại mô hình kinh
tế tư bản và chủ nghĩa tân tự do trên đà trở thành tư duy độc nhất, thì các tổ
chức xây dựng trên triết lý tự do tư bản không còn ngần ngại đưa các nguyên lý
chính trị vào các hoạt động tư vấn và chi viện của mình. Trong rất nhiều thí dụ,
xin chỉ kể đến vài trường hợp sau đây.
Ở
buổi họp thường niên năm 1996, chủ tịch Ngân hàng thế giới và giám đốc IMF cùng
tuyên bố sẽ cứng rắn hơn nữa trước tệ nạn tham nhũng trong các nước nghèo. IMF
ngưng cho Kenya vay vì chính quyền nước này không chịu lập một cơ quan chống
tham nhũng và đã sa thải một cán bộ cao cấp tích cực tố cáo những chuyện bê bối
của nhà nước. Trong hợp đồng cho vay ký với Indonesia tháng 1.1998, IMF không
những qui định các mục tiêu kinh tế mà còn ghi rõ chính quyền nước này phải chấm
dứt tài trợ và ưu đãi các xí nghiệp thuộc về gia đình của tổng thống Suharto.
Đề
tài chính của bản báo cáo hàng năm của Ngân hàng thế giới về sự phát triển trên
thế giới, World Development Report, năm 1997 là nhà nước, và mang tựa
đề phụ là The State in a Changing World. Báo cáo này phân tích tình
hình trong các nước Châu Phi (là khách hàng chính của Ngân hàng thế giới), nói
rõ những gì cần làm để chỉnh đốn các nhà nước, bảo đảm pháp trị, chấm dứt lộng
quyền, và quở trách các nhà nước tiêu pha bừa bãi, không quan tâm đến thành phần
này, thiểu số kia, v.v.
Ngân
hàng Châu Âu cho phục hồi và phát triển (European Bank for Reconstruction
and Development - EBRD), thành lập để giúp các nước Đông Âu chuyển sang cơ
chế thị trường, là tổ chức đi xa nhất trong việc gắn liền các đòi hỏi chính trị
với điều kiện kinh tế. Đoạn mở đầu của Hiệp ước thành lập EBRD khẳng định các
bên tham gia sẽ "tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của dân chủ đa đảng, pháp
trị, tôn trọng nhân quyền và kinh tế thị trường". EBRD nghiêm khắc đến mức
Thụy Sĩ, một nước rất ư là tư bản, cũng phải đề nghị nên áp dụng uyển chuyển
hơn các qui tắc đầu tư để cho phép các nước Đông Âu có thêm thì giờ vượt qua
các cú sốc về văn hoá và kinh tế hãy còn đè nặng lên dân chúng sau sự sụp đổ của
chế độ trước. Và Yougoslavia cũng chỉ mới được vào danh sách các nước có thể được
nhận đầu tư của EBRD vào tháng 4 năm nay, sau khi đã đổi chính quyền cuối năm
ngoái .
Bài
trừ tham nhũng, chỉnh đốn thể chế, pháp trị. Với những đề tài này chúng ta đã
ra khỏi lĩnh vực thuần kinh tế để bàn tới các chuẩn vừa kinh tế vừa chính trị.
Và nhắc đến một hình thức giới hạn quyền tự chủ khác, qua một số hoạt động của
tổ chức OECD.
OECD
và các chiến dịch trong sạch hoá hoạt động kinh tế
Trong
khi WTO, tuy là cái đích tấn công của mọi phong trào chống toàn cầu hoá và chủ
nghĩa tự do kinh tế, đang dần dà thành một tổ chức toàn thế giới, qui tụ các nước
có chế độ kinh tế chính trị khác nhau, OECD vẫn chỉ có 30 nước thành viên cùng
chia xẻ tôn chỉ của tổ chức: kinh tế thị trường mở rộng, dân chủ đa nguyên, và
tôn trọng nhân quyền. Mọi hoạt động của OECD đều nhằm củng cố hệ thống kinh tế
thị trường quốc tế và quảng bá các giá trị cơ bản của chủ nghĩa tự do kinh tế.
Do đó ngoài những lĩnh vực "kỹ thuật" như nông nghiệp, kỹ nghệ, xã hội,
khoa học, v.v., OECD còn có những hoạt động mang tính chất chuẩn mực hoá như cạnh
tranh và cải tổ cơ chế, quản trị quốc gia, bài trừ tham nhũng, chống hiện tượng
rửa tiền (money laundering), và ngăn chận sự cạnh tranh bất chính về thuế.
Hiện
tượng tham nhũng là một vấn đề được bàn cãi đã rất lâu và đụng chạm đến nhiều
khía cạnh phức tạp - tâm lý, thể diện quốc gia, chủ quyền nội bộ - , nên mãi đến
năm 1997 các nước thành viên OECD mới thông qua một Công ước cấm hối lộ các nhà
chức trách trong các giao dịch kinh tế quốc tế, gọi tắt là Công ước chống tham
nhũng (Anti-Bribery Convention). Trong khuôn khổ Công ước này, OECD hàng
năm báo cáo về các biện pháp, luật lệ chống tham nhũng của các nước tham gia
(30 nước thành viên và Argentina, Brazil, Bulgaria và Chile), lập cơ sở dữ liệu
và một trung tâm thông tin điện tử (OECD Anti-Corruption Ring Online - AnCoR
Web) để giúp các chính quyền, các công ty và công chúng có thể tham khảo tất
cả các tài liệu liên quan. OECD cũng thành lập cho mỗi vùng một mạng luới chống
tham nhũng tại Đông Nam Âu Châu, Á Châu và Thái Bình Dương, v.v. Tất cả những
hoạt động này gây sức ép lên các chính quyền, bắt phải tuân theo các chuẩn quốc
tế đã được qui định.
Cũng
cho mục đích trong sạch hoá ấy, OECD tích cực chống hiện tượng rửa tiền, lập ra
một nhóm nghiên cứu các luật lệ và thủ tục áp dụng cho các giao dịch tài chính
trong các nước sống nhiều về ngành ngân hàng và chuyên đón nhận các luồng vốn từ
nước khác đến tìm nơi ẩn náu để trốn thuế hay để che dấu nguồn gốc bất chính.
Nhóm Financial Action Task Force on Money Laundering, gọi tắt
là FATF mỗi năm công bố một danh sách các nước không hợp tác
trong việc chống rửa tiền (non-cooperative countries and territories -
NCCT ), và yêu cầu các nước thành viên OECD "chỉ thị cho các cơ sở
tài chính của mình đặc biệt cảnh giác trong các giao dịch và quan hệ kinh tế với
những công ty và cơ sở tài chính của các nước này". Đây là một hình thức vạch
mặt chỉ tên, bêu xấu ("name and shame"), gần như kêu gọi tẩy
chay, hết sức hiệu nghiệm để ép các nước bị qui vào danh sách "cứng đầu"
phải sửa đổi luật lệ, cơ cấu để lấy lại thanh danh. Nhóm FATF xem xét từng trường
hợp, khen thưởng nước nào đã sửa sai bằng cách tuyên bố rút tên họ ra khỏi danh
sách NCCT, nhắc nhở và khuyến khích nước nào chưa cải tổ đủ để ra khỏi danh
sách NCCT nhưng tỏ ra có thiện chí, và đối với nước nào ngoan cố thì đề nghị một
số biện pháp theo dõi và hạn chế giao dịch. Bài báo cáo này của FATF được chờ đợi,
bàn tán rất nhiều mỗi năm, và các phản ứng hú vía mừng rỡ của các nước
"thoát nạn" hay tức giận phản đối của các nước bị nêu tên cho thấy
tác dụng rõ rệt của nó. Tuy FATF chỉ là một nhóm tự nguyện nên các quyết định
không có giá trị ràng buộc pháp lý nhưng 40 "điều răn" (recommendations)
của nhóm được coi như như những chuẩn quan trọng cho việc ngăn chặn các giao dịch
rửa tiền.
Với
mục đích và biện pháp tương tự, OECD cũng tìm cách ép các nước phải hợp tác để
giải quyết tình trạng cạnh tranh về thuế qua những chế độ ưu tiên nhằm thu hút
đầu tư nhưng gây tổn hại cho nước khác, thường gọi là "thiên đàng thuế"
(tax haven). Tháng 5.1998, OECD ra một bản báo cáo về hiện tượng này, đề
nghị 19 điều khuyến dụ và một số nguyên tắc chỉ đạo (Guidelines for dealing
with harmful preferential regimes) nhằm thuyết phục các nước thành viên và
cả không thành viên tránh áp dụng những biện pháp gây tổn hại này. Tháng
6.2000, OECD công bố một danh sách 35 nước bị coi là thiên đàng thuế theo các
tiêu chuẩn đã ấn định và tổ chức một buổi họp với 30 nước thành viên và 30 nước
khác để tìm cách giải quyết một cách phối hợp. Đầu tháng 7 năm nay, OECD thông
qua một bản báo cáo sau khi đi đến một giải pháp dung hoà với các nước bị cho
vào "sổ đen" năm ngoái: các thiên đàng thuế sẽ không bị áp dụng các
biện pháp trừng phạt kinh tế nếu đồng ý hợp tác và cung cấp thông tin khi các
cơ quan điều tra của nước khác yêu cầu. Nói cách khác, các nước này chỉ cứu được
chính sách thuế của mình, và quyền tự chủ trong chừng mực này, với điều kiện là
trong suốt hơn và sẵn sàng hợp tác.
Trong
các hoạt động chuẩn mực, đạo đức hoá này, OECD cũng được sự hỗ trợ của nhiều tổ
chức và cơ quan quốc tế khác như IMF, Liên Hiệp Quốc, LH Châu Âu, Interpol, Ủy
ban Basel Committee của tổ chức BIS (Bank for International
Settlements), quản lý các giao dịch giữa các ngân hàng trung ương quốc gia,
v.v. Không kể đến một vài nước như Mỹ, cũng rất tích cực, tiếp tục truyền thống
sen đầm quốc tế của mình xưa nay.
Vai
trò sen đầm quốc tế của Mỹ
Ngoài
việc tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động trong mọi tổ chức quốc tế để bảo
vệ quan điểm và quyền lợi của mình, nước Mỹ cũng không ngần ngại đơn phương kiểm
soát, phân tích, vận động, răn đe, nói chung là can thiệp vào bất cứ lĩnh vực
gì cảm thấy mình có quyền và có lợi ở đấy. Với những phương tiện khổng lồ của một
cường quốc, Mỹ tự thành lập cho mình một mạng lưới riêng để theo dõi và thúc đẩy
việc thực thi các chuẩn quốc tế song song với những bộ phận quốc tế chính thức
có nhiệm vụ quản lý chúng. Mỹ làm như thế dĩ nhiên không phải là vì tinh thần
quốc tế hay lý tưởng đạo đức gì mà để giữ vững vị trí ưu thế của mình. Ở đây chỉ
xin đơn cử vài thí dụ.
Không
chỉ đóng vai trò then chốt trong các thương thuyết về việc Trung Quốc gia nhập
WTO, Mỹ còn thiết lập cả một cơ cấu để sau này tự mình kiểm soát việc Trung Quốc
có thi hành nghiêm chỉnh hay không những gì đã giao ước và luật lệ WTO. Đấy
không chỉ để trấn an dư luận trong nước và thuyết phục quốc hội Mỹ thông qua hiệp
ước thương mại song phương Mỹ-Trung Quốc, mà còn là một chiến lược chung của
chính quyền Mỹ: kiểm soát và bắt các nước đối tác phải thi hành những gì đã ký
kết và thoả thuận. Nhiệm vụ kiểm tra này được giao cho 4 cơ quan: Bộ thương mại,
Bộ nông nghiệp, Bộ ngoại giao và Văn phòng của Đại diện chính quyền Mỹ về ngoại
thương (United States Trade Representative -USTR). Chẳng hạn Bộ thương mại
có nhiệm vụ theo dõi xem các nước khác, đặc biệt là Nhật và LH Châu Âu, có chấp
hành các điều lệ của WTO, và các nước xin gia nhập WTO, nhất là Trung Quốc và
Nga, sẽ có thực thi hay không các giao ước. Vụ ngoại thương thuộc Bộ thương mại
cũng lập ra đủ loại cơ quan để thực hiện chức năng này: các trung tâm Trade
compliance Center, Market access compliance (Mac), China
Gateway, v.v., đều là nơi thông tin cho các doanh nghiệp Mỹ về các luật lệ,
chuẩn quốc gia và quốc tế, và đều có một hộp thư điện tử (complaint hotline) khuyến
khích doanh nhân Mỹ than phiền, tố cáo những vi phạm của nước khác để chính quyền
Mỹ áp dụng biện pháp trả đũa hay đưa ra kiện trước WTO. Mỗi cơ quan được phân
công nhiệm vụ theo dõi trong lĩnh vực thẩm quyền của mình. Chẳng hạn Văn phòng
USTR, trong báo cáo hàng năm ra tháng 4 năm nay, chỉ trích 10 nước còn trì trệ
trong việc cải tổ hệ thống viễn thông, trái với những hiệp ước đã ký, và cho
riêng hai nước Mexico và Colombia một thời hạn nhất định để chấp hành nếu không
muốn bị lôi ra kiện trước WTO.
Trước
sự phát triển của các luồng thương mại đầu tư và các hiệp ước quốc tế, tổng thống
Clinton tháng 4.2000 đã đề nghị tăng thêm 22 triệu đô-la cho ngân sách các hoạt
động kiểm tra và bảo vệ quyền lợi của doanh nhân Mỹ này.
Về
chống tham nhũng, Mỹ không những theo dõi xem các nước kia có thực thi những điều
khoản của Công ước hay không mà còn kiểm soát cả các hoạt động của chính các tổ
chức quốc tế trên phương diện này! Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật IAFCA (International
Anti-Bribery and Fair Competition Act) để giao cho Bộ thương mại nhiệm vụ
này. Mỗi năm, bộ báo cáo lên quốc hội kết quả của sự kiểm tra chi tiết đối với
từng nước và một số tổ chức quốc tế quan trọng như IMF, WTO hay Liên Hiệp Quốc,
và cả những tổ chức nhỏ như Intelsat, chỉ lo về vệ tinh.
Mỹ
cũng khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào "công tác" kiểm soát
này, trong đủ mọi lĩnh vực. Những tổ chức tư nhân như Transparency
International, American Bar Association, tham gia chống tham
nhũng. Business Software Alliance (BSA), qui tụ các nhà
sản xuất máy tính và phần mềm, tiếp tay với các chính quyền để chống lại việc
sao chép lậu phần mềm, góp phần thực thi các điều khoản của hiệp ước TRIPs và
các hiệp ước WIPO bảo vệ quyền sở hữu tri thức.
Nói
tóm lại, các quốc gia phải tuân thủ rất nhiều chuẩn mực quốc tế, dưới sự giám
sát không những của các nước khác trong khuôn khổ đa phương mà còn với áp lực
đơn phương của vài cường quốc, nhất là Mỹ. Khi thấy Mỹ tích cực như thế, coi việc
kiểm soát thi hành như việc riêng, thiết thân của mình, chúng ta cũng có thể đặt
câu hỏi đâu là luật quốc tế và đâu là luật của cường quốc, hay nếu dùng chữ nặng
nề hơn, vấn đề là chuẩn quốc tế hay chuẩn đế quốc ?
Chuẩn
quốc tế hay chuẩn đế quốc ?
Chúng
ta không cần nhắc lại ở đây, vì ai cũng rõ và vì không phải là đề tài của hội
thảo, tại sao Mỹ hơi bị mang tiếng là có truyền thống và tác phong đế quốc. Chỉ
nêu lên một nhận xét nhỏ: cùng nói một thứ tiếng, nhưng người Anh coi chữ
"aggressive" như một câu mắng chửi, trong khi người Mỹ thấy đó
là một lời khen. Điểm ấy đủ cho thấy đây là cả một vấn đề nhân sinh quan, có thể
giải thích được một số điều trong quan hệ giữa Mỹ và thế giới. Để dùng chữ cho
chính xác hơn, có thể nói đây là một phong thái riêng, kết quả không chỉ của sức
mạnh kinh tế mà còn của nhiều nét đặc thù văn hoá. Ở đây, để tìm hiểu cái nhìn
và các hành động của Mỹ đối với luật lệ và chuẩn quốc tế, có thể nêu lên ba yếu
tố: tính năng động, đầu óc phép tắc và sính kiện cáo (legalistic attitude,
esprit procédurier) và ý chí bảo vệ quyền lực kinh tế, và ảnh hưởng chính
trị và văn hoá.
Ai
cũng biết, xã hội Mỹ xây dựng trên tính năng động và người Mỹ có óc tố tụng
cao. Phản ứng tự nhiên của họ là tìm hiểu rõ của mình quyền lợi của mình, bảo vệ
triệt để nó và, vì đã quen làm gì thì làm tới cùng, nên không ngần ngại kiện
cáo. Chính quyền thì đương nhiên muốn có mặt khắp nơi, cái gì cũng để mắt tới
và lớn tiếng bảo vệ quyền lợi quốc gia và của công dân mình. Sự hăng hái này (aggressive theo
nghĩa của Mỹ) vì thế dễ bị xem là hung hăng (aggressive theo cách
hiểu của cả thế giới còn lại). Óc phép tắc thể hiện qua sự quan trọng của hiến
pháp, đạo luật gì cũng có thể bị lôi ra để bàn cãi xem có kiện được là trái hiến
pháp không. Cảnh sát trước khi bắt bớ ai cũng phải đọc to các quyền lợi công
dân cho người ấy nghe để khỏi bị kiện sau này là giam cầm trái luật, trái phép.
Cộng thêm ảnh hưởng của truyền thống Thanh giáo khiến xã hội Mỹ hay gắn thêm
kích thước đạo đức vào cả các hoạt động chính trị và kinh tế, không có gì khó
hiểu khi Mỹ đặt nặng vấn đề tôn trọng chuẩn, kể cả các chuẩn có tính cách đạo đức
như chống tham nhũng, và tự cho mình quyền và bổn phận.
No comments:
Post a Comment