Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-01-27
2015-01-27
Hai phần
ba dân số 90 triệu của Việt Nam sống trong khu vực nông thôn đã góp phần vào
kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 31 tỷ USD năm 2014. Bốn mươi năm sau khi
thống nhất đất nước, nông dân Việt Nam đã hưởng được thành tựu gì và có mức sống
như thế nào.
Người
trồng lúa không sống nhờ cây lúa
Sau
ngày 30/4/1975 và đất nước thống nhất về pháp lý một năm sau đó, Việt Nam đã trải
qua một giai đoạn chìm đắm và bế tắc trong chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, đặc trưng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn đó xã hội chịu cảnh đói
nghèo với thực tế ngăn sông cấm chợ khắp nơi. Cuộc đổi mới lịch sử cuối thập
niên 1980 đã giúp Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực phải nhập khẩu hạt mì, bo bo
ăn thay cơm, đã nhanh chóng tự túc lương thực rồi có dư gạo để xuất khẩu.
Tuy vậy,
có một thực tế là ở Việt Nam người trồng lúa không sống được với cây lúa. Trong
khu vực sản xuất lúa gạo nơi qui tụ nhiều nông dân nhất trên cả nước, người
nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếng là có cuộc sống dễ thở nhất
thì đời sống của họ ra sao?
Anh Tư Phương hiện nay 33 tuổi, khởi nghiệp làm ruộng
từ 2006 kể cho chúng tôi câu chuyện bản thân:
“Cha
mẹ để lại cho tôi là con trai út 8 công ruộng tầm 3 thước, Đông Xuân thì lời một
công khoảng 3 triệu, Hè Thu khoảng 1 triệu ngoài, Thu Đông cũng vậy hơn 1 triệu.
Sống cũng được nhưng nói thiệt là cũng đi làm thêm để dư ra chút xíu, làm công
ty thêm rồi phụ ở nhà làm lúa thêm nữa mới đắp đổi được. Tôi làm công ty tới vụ
thì đi về làm lúa, làm xong rồi trở lại công ty. Tôi làm công ty cá ba sa vợ
tôi cũng vậy, mỗi khi tới vụ lúa thì xin nghỉ một tuần lễ gặt xong sạ lại rồi
thì đi làm công ty. Nếu thấy lúa bệnh thì xin nghỉ một ngày về xịt thuốc. Đi
làm sáng đi chiều về chứ không ở lại công ty, từ nhà đến công ty khoảng 10 cây
số.”
Mơ ước
của anh Phương là làm sao để vài năm nữa có đủ tiền mua thêm ruộng vì ngày nay
làm ruộng đã đỡ vất vả hơn. Ở vùng anh máy móc đã làm thay nhiều công đoạn cho
người nông dân.
Theo
như lời kể của anh Tư Phương ở đồng bằng sông Cửu Long, thu nhập từ 8 công ruộng
làm lúa mỗi năm 3 vụ được tổng cộng khoảng 40 triệu cho gia đình gồm hai vợ chồng
hai đứa con. Nếu chia đầu người thì mỗi người trong nhà anh Phương chỉ được 10
triệu đồng/người/một năm vị chi bình quân đầu người hơn 840.000đ một tháng
tương đương khoảng 40 USD. Con số này khác xa với mức thu nhập bình quân đầu
người năm 2013 của Việt Nam là 1.960 USD hay khoảng 150 USD/tháng mà Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng rất tự hào.
Đó cũng
là lý do hai vợ chồng anh Phương đều phải đi làm ở công ty chế biến thủy sản;
phần làm ruộng là để khỏi lo cái ăn, đi làm công ty để bù đắp các chi phí khác
trong cuộc sống hàng ngày. Câu chuyện của gia đình Tư Phương có thể xem là một
thí dụ điển hình cho tình cảnh của người nông dân Việt Nam.
Nhược
điểm của nền nông nghiệp VN
Đất nước
thống nhất đã 40 năm và hơn 25 năm sau đổi mới thành tựu của nông nghiệp-nông
thôn-nông dân đạt được những gì?
TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương từ Hà Nội nhận định:
“ Về
Nông nghiệp đã có sự cải thiện rất đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 1993
là vào khoảng 58% thì bây giờ có thể giảm xuống còn độ 18%-19% với tiêu chuẩn 2
đô la một đầu người một ngày. Như vậy là có sự cải thiện, nếu về nông thôn Việt
Nam sẽ thấy phần lớn làng xóm ở Việt Nam đã có đường ô tô chạy đến nơi, đã có
điện, điện thoại và Internet, đã có trường học, trạm y tế …Tuy vậy mức giảm
nghèo ở nông thôn chậm hơn ở thành thị, thứ hai nữa là đời sống của người nông
dân chậm được cải thiện bởi vì tỷ lệ đất trên đầu người nông dân ở Việt Nam quá
thấp. Hơn nữa người nông dân chịu quá nhiều rủi ro, tủi ro của sâu bệnh, rủi ro
của thời tiết và đặc biệt là rủi ro thị trường; nay thì giá cà phê tăng lên
ngày mai lại giảm đi, giá cao su cũng biến động.
TS Lê Đăng Doanh nhấn mạnh tới những khiếm khuyết
của nền nông nghiệp Việt Nam mà ông cho cần phải cải cách. Ông nói:
“Đặc
biệt nền nông nghiệp Việt Nam chưa phát triển được công nghiệp gia công chế biến
là làm tăng thêm giá trị gia tăng và ngân hàng khoa học công nghệ cũng như công
nghệ chế biến xuất khẩu chưa kế nối được với nhau thì sắp tới đây trong công cuộc
hội nhập nông nghiệp Việt Nam cũng cần phải tái cơ cấu và phát triển thành những
doanh nghiệp nông nghiệp có những doanh nghiệp với qui mô khoảng vài ngàn
héc-ta để có thể áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và cơ khí hóa và kết hợp được
với ngân hàng với các Viện khoa học và với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu
thì lúc bấy giờ Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển một nền nông nghiệp
phồn vinh.”
Đó là sự
đánh giá của chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đối với thành tựu và cả những nhược
điểm của nền nông nghiệp Việt Nam sau một phần tư thế kỷ đổi mới.
Ông
Nguyễn Minh Nhị là một đảng viên trung kiên từ nông dân trở thành Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân tỉnh An Giang. Khi về hưu năm 2004 ông Nguyễn minh Nhị cũng trở về
với cuộc sống ở Nông thôn. Hiểu rõ đồng ruộng và từng ở trong cương vị quản lý
nhà nước, trả lời câu hỏi 40 năm sau thống nhất và hơn 25 năm sau cuộc đổi mới
thành tựu phát triển nông nghiệp và phúc lợi của nông dân có tương ứng với khoảng
thời gian dài như vậy hay không?
Ông Nguyễn Minh Nhị nhận định:
Thành
quả đó tương ứng với chiều dài thời gian nhưng chỉ tương ứng về số lượng chứ chất
lượng thì chưa. Các chính sách trực tiếp đối với người nông dân thì tương đối
nhiều và rõ ràng nhưng đó là cái trực tiếp còn cái gián tiếp thì chưa đúng mức,
tức là người nông dân giàu nghèo thì phải qua sản phẩm họ làm ra, sản phẩm đó
phải bán được giá mà điều này thì phải qua người khác chứ không phải qua nhà nước,
nói cách khác qua các doanh nghiệp. Vai trò các doanh nghiệp chỗ này chưa thể
hiện nổi bật cho nên người nông dân coi như tự bơi. Cho nên mới có tình hình trồng
cây gì nuôi con gì tức là nông dân bị lúng túng.”
Như lời
TS Lê Đăng Doanh nhận định, mức độ giảm nghèo của nông thôn chậm hơn thành thị
và mức sống của nông dân cũng chậm cải thiện. Theo sự hiểu biết của chúng tôi,
khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị càng ngày càng lớn hơn rất
nhiều. Nếu Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa thì phải chăng họ đã thất bại trong chủ trương bảo vệ đời sống của
người nghèo mà đặc biệt là nông dân.
Cựu Chủ tịch tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị nhận định:
“Thất
bại tôi chưa nói tới nhưng kết quả đạt được không như mong muốn. Cái khoảng
cách giàu nghèo nó có những chỉ dấu báo động là mình phải quan tâm chứ còn so với
nhiều nước thì chưa thành vấn đề gì lớn lắm. Nhưng mà nếu bây giờ chưa nhìn ra
vấn đề này để mà chấn chỉnh thì sắp tới mức độ giãn ra còn lớn nữa. Bởi vì vấn
đề hội nhập càng sâu mà giải quyết không đồng bộ thì vấn đề phức tạp sẽ lớn
hơn.”
Tuy nhà
nước luôn tự hào về các thành tích xuất khẩu nông lâm thủy sản và riêng mặt
hàng gạo mỗi năm xuất khẩu trên dưới 6 triệu tấn gạo trong những năm gần đây.
Tuy nhiên nhược điểm của Việt Nam trong điều hành nền kinh tế đưa tới việc xuất
khẩu được 3 tỷ USD gạo thì lại phải bỏ hơn 4 tỷ USD nhập khẩu bắp, đậu nành và
nguyên liệu khác để làm thức ăn chăn nuôi. Một nghịch lý mà Ông Trương Tấn Sang
Chủ tịch Nước đã ví von “Xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới nhưng túi rỗng”.
Trong
khi các chuyên gia kinh tế cho rằng vấn đề quyền tư hữu, qui mô đồng ruộng nhỏ
bé là những cản trở cho sự phát triển nền nông nghiệp bền vững và phồn vinh,
thì ông Nguyễn Minh Nhị cho rằng không hẳn như vậy. Theo lời ông, vấn đề đó có ảnh
hưởng nhưng chủ yếu về tâm lý là chính, thực tế hiện nay có nông dân làm chủ cả
trăm héc-ta đất qua hình thức nhiều người đứng tên, địa phương biết rõ nhưng
không cản trở.
Cựu Chủ tịch An Giang phát biểu:
“ Nó
có ảnh hưởng nhưng không nhiều bởi vì có nhiều nước, vùng lãnh thổ như Nhật Bản,
Đài Loan, Hàn Quốc, đất của người không có nhiều, qui mô hộ cá thể cũng không lớn.
Nhưng cái tổ chức của người ta nó tốt, nó liên kết được chiều ngang là khối lượng
mà còn liên kết chiều dọc tức là làm tăng giá trị của sản phẩm lên. Cho nên đất
ít đất nhiều không phải là vấn đề lớn mà vấn đề là tổ chức sản xuất. Tổ chức sản
xuất ở Việt Nam vừa qua chưa bảo đảm được hai yếu tố đó.”
Cựu Chủ
tịch An Giang Nguyễn Minh Nhị cho rằng Việt Nam phải làm sao thay đổi được mô
hình quản lý và tổ chức lại sản xuất thì mới có thể phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững và có ích lợi cho người nông dân.
Ông nói:
“Từ
trước tới giờ tôi hay nói nhiều là phải cấu trúc lại mô hình quản lý ngành nông
nghiệp tức là một người chịu trách nhiệm, vừa qua thiếu cái này cho nên khi thực
hiện chính sách luật pháp hay đặc biệt trong tổ chức sản xuất thì gặp nhiều trục
trặc. Bởi vì nói gì thì cũng không biết đó là ai, ai là người đầu tiên chịu
trách nhiệm và đó là người cuối cùng chịu trách nhiệm. Sắp tới nếu không thực
hiện được cái này thì nó cũng không thể phát triển được.”
Vấn đề
một người chịu trách nhiệm trong mô hình quản lý và sản xuất nông nghiệp mới
nghe thật giản dị, nhưng nó hàm chứa bên trong sự thay đổi thể chế chính trị ở
Việt Nam. Bởi vì từ khi thống nhất đất nước đến nay, Việt Nam thực hiện chế độ
trách nhiệm tập thể, nếu một chính sách đường lối nào bị thất bại thì đó là
trách nhiệm tập thể mà không có nhà lãnh đạo nào nhận trách nhiệm cá nhân.
Sau 40
năm thống nhất và hơn 25 năm thực hiện đổi mới, có nhiều chỉ dấu cho thấy Đại hội
Đảng khóa 12 vào năm 2016 có thể quyết định đổi mới lần thứ 2 trong lịch sử.
Tuy vậy, cựu Chủ tịch tỉnh An Giang nói rằng ông không thấy có hy vọng gì cho nền
nông nghiệp Việt Nam vì theo ông đổi mới là một quá trình liên tục, thời gian vừa
qua dài như vậy nhưng chưa có gì mới. Như vậy tính liên tục chưa được bảo đảm
cho nên ông không thấy phấn khởi.
No comments:
Post a Comment