Hoàng Kim
18/01/2015
Nông dân là chiếc bóng
trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
Ngày
7/5/2001 cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại Vũ khoan có Tờ trình số 1106/ TM/XNK “ v/v
Hợp tác xuất khẩu gạo Việt Nam – Thái Lan” lên Thủ tướng Chính phủ, để báo cáo
về cuộc gặp giữa hai Bộ trưởng Thương mại Việt Nam và Thái Lan.
Ngày
19/5/2001, trả lời phỏng vấn của TTXVN, cựu Bộ trưởng Vũ Khoan khẳng định: “ Sẽ
hợp tác xuất khẩu gạo toàn diện với Thái Lan”.
Bộ
Trưởng Vũ Khoan giải thích:
“ Vì Việt Nam và Thái
Lan hiện chiếm khoảng 45% thị phần thế giới về xuất khẩu gạo. Nếu hai nước hợp
tác với nhau thì có thể tác động làm cho giá gạo trên thị trường thế giới ở mức
có lợi cho bà con nông dân” (1).
Trong
bài: “ Bắt tay với Thái Lan” đăng
trên báo Người Lao Động Online tôi khẳng định muốn ấn định giá gạo phải bắt tay
với Thái Lan xin được trích:
“Hãy thử so sánh: Tổ
chức Các quốc gia xuất khẩu dầu lửa (OPEC) có hơn 10 thành viên nhưng khai thác
khoảng 40% sản lượng dầu của thế giới và chi phối cơ bản thị trường này. Trong
khi đó, VN và Thái Lan chiếm đến 45,4% tổng lượng gạo xuất khẩu thế giới (số liệu
vào năm 2008), vậy chúng ta hoàn toàn có thể bắt tay với người Thái để hình
thành liên minh song phương ấn định giá bán gạo xuất khẩu. Theo tôi, đề xuất
thành lập Tổ chức Các quốc gia xuất khẩu gạo (Organization of Rice Exporting
Countries - OREC) hoạt động theo mô hình của OPEC, do VN và Thái Lan làm nòng cốt,
cũng là một giải pháp khả dĩ nhằm củng cố thế mạnh và giá trị của hạt gạo VN
trên thị trường quốc tế”(2).
Thế
nhưng, trên thực tế từ năm 2001 đến nay chưa hề có sự hợp tác nào giữa Việt Nam
và Thái Lan trong xuất khẩu gạo.
Từ
năm 2001 đến nay, Thái Lan luôn đề nghị Việt Nam hợp tác trong xuất khẩu gạo để
ấn định giá lúa gạo, mặt khác Thái Lan luôn thực hiện chính sách tạm trữ lúa gạo
giá cao cho nông dân Thái Lan, đỉnh điểm là chính sách nâng giá mua lúa lên khoảng
500 đô la Mỹ/ tấn của Thủ tướng Yingluck Shinawantra.
Vì
thế, có thể khẳng định sự bất hợp tác trong xuất khẩu gạo của 2 nước xuất phát
từ phía Việt Nam.
Để hiểu tại sao Việt Nam không hợp tác với Thái Lan trong xuất
khẩu gạo chúng ta hãy đọc kỹ Tờ trình số 1106 TM/XNH của Cựu Bộ trưởng Vũ
Khoan.
Đánh
giá về mục đích hợp tác của Thái Lan tờ trình cho biết:
“Những lý lẽ mà phía Thái Lan đưa ra khi đề cập tới sự hợp tác giữa hai nước như: quyền lợi người sản xuất hai nước chưa được bảo đảm, hai nước chiếm thị phần lớn nhưng nay đang bị các nước nhập khẩu định giá và Thỏa thuận ( Mou) về hợp tác bán gạo chưa đi vào cuộc sống… nên cần tìm cách hợp tác là ý tưởng tích cực. Việc hợp tác với Thái Lan có thể sẽ làm giảm phần nào sức ép của người nhập khẩu đối với giá xuất khẩu của ta hiện nay”.
“Những lý lẽ mà phía Thái Lan đưa ra khi đề cập tới sự hợp tác giữa hai nước như: quyền lợi người sản xuất hai nước chưa được bảo đảm, hai nước chiếm thị phần lớn nhưng nay đang bị các nước nhập khẩu định giá và Thỏa thuận ( Mou) về hợp tác bán gạo chưa đi vào cuộc sống… nên cần tìm cách hợp tác là ý tưởng tích cực. Việc hợp tác với Thái Lan có thể sẽ làm giảm phần nào sức ép của người nhập khẩu đối với giá xuất khẩu của ta hiện nay”.
Việt
Nam và Thái Lan phải qua Phillippine đấu thầu bán gạo, Thái Lan phải phá giá gạo
để trúng thầu nên Thái Lan muốn hợp tác với Việt Nam để định giá bán gạo là điều
hợp lý cho quyền lợi của 2 nước, vì thế, lẽ ra, ông Vũ Khoan phải đi sâu vào
cách thức hợp tác để ấn định giá gạo xuất khẩu.
Để
ấn định được giá gạo xuất khẩu phải điều tiết được số lượng gạo xuất khẩu, muốn
điều tiết được số lượng gạo xuất khẩu phải có đủ kho để tồn trữ lúa gạo, muốn
có kho thì phải có kế hoạch xây dựng, những điều này ông Vũ Khoan không hề đề cập
đến trong tờ trình, dù đây mới chính là điều then chốt trong việc hợp tác.
Ông
Vũ Khoan không thấy rằng: Chính phủ Thái Lan đang mua lúa của nông dân Thái Lan
để tạm trữ trong kho, nhằm mục đích điều tiết số lượng lúa gạo trong từng giai
đoạn xuất khẩu gạo, nên đã phủ nhận trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam trong xuất
khẩu gạo: “ Từ năm 2001 này Việt Nam đã thực hiện chính sách tự do hóa đối với
mặt hàng gạo, việc định một giá chuẩn là khó thực hiện. Việc Nhà nước can thiệp
quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp sẽ khó được chấp nhận.
Thái
Lan có nền kinh tế thị trường, Việt Nam kinh tế thị trường định hướng XHCN, Hiệp
hội lúa gạo của Thái Lan hoàn toàn của tư nhân, Hiệp hội lúa gạo của Việt Nam
hoàn toàn của Nhà nước đang độc quyền mua bán lúa gạo của nông dân, vậy tại sao
Chính phủ Thái Lan được quyền can thiệp mua lúa tạm trữ để giữ giá cao cho nông
dân Thái Lan, còn Việt Nam thì Chính phủ mua tạm trữ để giữ giá cao cho nông
dân Việt Nam lại không được chấp nhận (?!)
Vấn
để quan trọng là phải làm thế nào để hợp tác hiệu quả với Thái Lan để ấn định
giá gạo không thấy đề cập đến, tờ trình lại đưa ra nghi ngờ Thái Lan muốn giành
lại thị trường hàng trắng, đặc biệt là loại gạo 25% tấm, cho nên cho rằng đây
là trở ngại.
Chưa
hội đàm về phương thức mà vội kết luận Thái Lan muốn giành thị trường là quá vội
vàng, không tiếp tục hội đàm với Thái Lan để bàn phương thức thực hiện việc ấn
định giá bán gạo, mà đưa ra những dự kiến về những đề nghị của Thái Lan là đoán
mò.
Tờ
trình đề nghị giảm sản lượng lúa của mỗi nước là một đề nghị kỳ cục.
Trong
đề nghị thống nhất giá xuất khẩu tờ trình chỉ thấy lợi ích của Thái Lan mà
không hề thấy lợi ích của Việt Nam.
Nói
đến thống nhất giá xuất khẩu gạo, ông Vũ Khoan cứng ngắt nghĩ rằng thống nhất
giá là giá bán gạo của Việt Nam phải bằng với giá gạo Thái Lan, nên lấy lý do
chất lượng và các điều kiện liên quan khác Thái Lan thuận lợi hơn Việt Nam, nên
đề nghị Thủ tướng không chấp nhận, mà chỉ giao cho Hiệp hội hai nước tiếp tục
trao đổi thông tin.
Thực
ra, thống nhất giá gạo không phải là bán cùng một giá mà giá bán tùy thuộc vào
chất lượng, thí dụ, gạo 5% tấm của Việt Nam có chất lượng bằng với gạo Thái Lan
thì giá bán phải bằng nhau, nhưng nếu gạo 25 % tấm của Việt Nam chất lượng thấp
hơn của Thái Lan, thì chúng ta sẽ bán giá thấp hơn tương xứng với sự thấp hơn về
chất lượng.
Vì
nhận định sai lầm về việc thống nhất giá xuất khẩu nên ông Vũ Khoan đề nghị: “ta không nên chấp nhận mà chỉ nên giao cho
Hiệp hội hai nước tiếp tục hợp tác trao đổi thông tin, cùng công bố giá cho các
loại gạo từng nước trong từng thời điểm để các nhà kinh doanh xuất khẩu gạo
tham khảo”.
Hợp
tác để lấy quyền ấn định giá bán gạo xuất khẩu phải do Chính phủ 2 nước thực hiện,
còn Hiệp hội chỉ là bộ phận thừa hành, nay giao cho Hiệp hội làm thay Chính phủ
đây là sai lầm lớn nhất của ông Vũ Khoan.
Không
hiểu rỏ hợp tác là để ấn định giá bán gạo xuất khẩu, không thấy được sự cần thiết
phải tồn trữ lúa gạo để điều tiết xuất khẩu gạo, và nhất là không thấy vai trò
lãnh đạo thực hiện phải là cấp Chính phủ, nên những phần còn lại của tờ trình
không có giá trị gì cả.
Không
hợp tác xuất khẩu gạo với Thái Lan, có nghĩa là Việt Nam tiếp tục để cho các nước
nhập khẩu gạo ấn định giá lúa gạo, và, với quyền ấn định giá, họ ép giá lúa gạo
của Việt Nam tận đáy, khiến cho từ năm 2001 đến năm 2005 Việt Nam luôn bán gạo
xuất khẩu với giá thấp nhất thế giới.
“ Trong vòng 5 năm
2001-2005, Việt Nam tuy đẩy ra thị trường thế giới tổng cộng hơn 20 triệu tấn gạo
và thu về gần 4,5 tỉ USD, nhưng trong khi giá xuất khẩu bình quân của 4 cường
quốc còn lại so với giá bình quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 91,6%,
cao nhất là gần 120% thì giá của chúng ta chỉ bằng gần 80% giá bình quân của thế
giới (220 USD/tấn). Đó là giá bán "bèo" nhất trong số 5 nước xuất khẩu
gạo nhiều nhất thế giới (xét theo khối lượng) theo thứ tự là Thái Lan, Ấn Độ,
Việt Nam, Mỹ và Pakistan.” (3)
Gạo
Việt Nam giá thấp tận đáy, năm 2006 Hiệp hội Lương thực Việt Nam (Vietfood) và
Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan ký hiệp ước hợp tác bình ổn giá gạo. ()
Kết
quả của việc ký kết của 2 Hiệp hội làm thay Chính phủ 2 nước là Việt Nam tiếp tục
bán gạo với giá rẻ nhất thế giới.
Điển
hình là việc trúng thầu 800.000 tấn gạo bán cho Philippine mà VOV.vn cho là “Hớ
đậm” chúng ta hãy xem cách bỏ thầu của Việt Nam:
“ Giá trần của đợt đấu
thầu này do NFA đưa ra là 477,28 USD/tấn và đúng bằng khoản ngân sách của Chính
phủ Philippines dành cho việc mua gạo đợt này là 382 triệu USD.
Giá bỏ thầu của các
đơn vị cụ thể như sau: Louie Dreyfus Co., (Pháp) chỉ bỏ thầu cung cấp 100.000 tấn
với giá 469,31 USD/tấn, Thai Hua Co. Ltd (Thái Lan) chỉ bỏ thầu 100.000 tấn với
giá 474,22USD/tấn và Singsong Hk Ltd (Hồng Kông) bỏ thầu 100.000 tấn với giá
475,68USD/tấn.
Riêng hai đơn vị của
Việt Nam là đã bỏ thầu tất cả các gói thầu, với mức giá chỉ từ 436,5 - 449USD/tấn.
So với đơn vị bỏ thầu
thấp nhất là Louie Dreyfus Co., (Pháp) với giá 469,31 USD/tấn thì phía Việt Nam
đã thấp hơn họ từ 28,06 USD đến 32,81/tấn.”. (4)
Mất
mát trong vụ bỏ thầu này khoảng 23,2 triệu đô la Mỹ.
Như
vậy, từ năm 2001 đến nay, mỗi năm nông dân Việt Nam mất trên 200 triệu đô la Mỹ
do không hợp tác với Thái Lan lập liên minh xuất khẩu gạo.
Chỉ
cần hợp tác với Thái Lan trong xuất khẩu gạo, mỗi năm không những không mất
trên 200 triệu đô la Mỹ do bị ép giá, mà có thể còn tăng thu nhập cho nông dân,
do Việt Nam có quyền định giá.
Tại
sao từ năm 2001 đến nay Việt Nam không hợp tác xuất khẩu gạo với Thái Lan?
Tại
sao bỏ lúa gạo nông dân cho nước ngoài ép giá, khiến nông dân ngày càng bần
cùng?
Tại
sao Chính phủ Thái Lan thực hiện chính sách tạm trữ mua lúa giá cao cho nông
dân Thái Lan, còn Chính phủ Việt Nam lại mặc sức cho Hiệp hội Lương thực Việt
Nam mua lúa với giá tùy tiện?
Các
câu hỏi này cần được ông Cựu Bộ Trưởng Vũ Khoan và những vị lãnh đạo có liên
quan có trách nhiệm trả lời cho nông dân
H.K
Tác
giả gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:53
No comments:
Post a Comment