Được
đăng ngày Thứ bảy, 03 Tháng 1 2015 18:59
Năm
2014, Việt Nam đã chứng kiến nhiều diễn biến chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội,
văn hóa và nhân quyền quan trọng. Những nhà bình luận thời cuộc đã bình chọn một
số dữ kiện điễn hình để bình luận và để cùng nhau... ngậm ngùi, vì không có giải
pháp cho bài toán bế tắc của đất nước. Càng ít ai tiên đoán hay phác họa những
gì sẽ xảy ra trong năm 2015.
Tuơng
lai của Việt Nam vẫn là một dấu hỏi lớn. Nhưng nếu được hướng dẫn đúng đắn, người
đọc sẽ thấy những gì đã xảy ra trong năm 2014 sẽ xảy ra cho năm 2015 và sẽ còn
tiếp tục trong những năm kế tiếp, ít nhất tới năm 2017, đúng theo một lộ trình
đã được hoạch định trước.
Kiểm điểm sự kiện
Giàn
khoan HD981 và Hội nghị Thành Đô
Đầu
tháng 5/2014, dư luận người Việt đã khá sửng sờ trước sự kiện Trung Quốc đưa
giàn khoan HD981 vào khu vực Biển Đông, cách đảo Tri Tôn của Việt Nam trong quần
đảo Hoàng Sa 30 km, khảo sát dầu khí dưới lòng biển.
Trước
sự xâm phạm lãnh hải trắng trợn này, phản ứng của chính quyền và quần chúng đã
hoàn toàn khác nhau. Ngay khi vừa hay tin, dân chúng Việt Nam liền xuống đường
biểu tình phản đối. Lo sợ phong trào biểu tình tự phát chống Trung Quốc vượt tầm
kiểm soát, chính quyền đã gián tiếp đứng ra tổ chức và hướng dẫn người biểu
tình vào những địa điểm đã được chọn sẵn. Lợi dụng sự bực tức này, lực lượng an
ninh đã hướng đoàn người bất mãn vào những khu chế xuất tại Bình Dương và Hà
Tĩnh đốt phá với hậu ý làm nản lòng giới đầu tư Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc
để rời bỏ Việt Nam và sau đo để doanh nghiệp Trung Quốc nhảy vào thay thế.
Không ngờ, ý đồ này không thành công và không những thế, giới đầu tư Đông Á còn
gia tăng vốn đầu tư để biểu lộ quyết chí ở lại Việt Nam, như Samsung chẳng hạn.
Cuối cùng chính quyền Việt Nam phải chấp nhận bồi thường thiệt hại cho doanh
nghiệp nước ngoài. Chỉ riêng tại Vũng Áng (Hà Tĩnh), nơi có doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư đã xảy ra án mạng vì công nhân Trung Quốc tại đây đã chống trả người
biểu tình bằng vũ lực.
Điều
lạ lùng trong vụ này là trong suốt tháng 5, không một cấp lãnh đạo nào trong Đảng,
Chính quyền, Quốc hội hay Quân đội lên tiếng phản đối. Lạ lùng hơn là việc
chính quyền xúi giục báo chí thay mình lên án Trung Quốc xâm phạm lãnh hải.
Nhưng điều không thể tưởng tượng là chính bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang
Thanh kêu gọi ngư dân đưa tàu đánh cá ra biển ngăn chặn đoàn tàu bảo vệ giàn
khoan hùng hậu của Trung Quốc. Giữa tháng 7, sự chống đối chấm dứt vì Trung Quốc
rút giàn khoan về nước để tránh bão.
Liền
sau đó trong nước dấy lên phong trào đòi giải mật những thỏa thuận đã ký trong
Hội nghị Thành Đô 1990. Không biết bao nhiêu bài viết lên tiếng về sự kiện này,
với những lời lẽ và lập luận không lấy gì làm vinh quang cho chế độ. Nhưng
phong trào này đã như một ngọn đèn dầu, chợt bùng lên vào tháng 6 rồi tự chìm tắt
trong tháng 10/2014.
Trong
khi đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục cuộc hành trình bành trướng ra Biển Đông một
cách bình thường. Khi mùa bão vừa chấm dứt vào tháng 9, hải quân Trung Quốc tiến
hành xây dựng gấp rút kiện toàn đường băng phi đạo cho phi cơ quân sự đáp xuống
trên đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa và mở rộng bãi đá Gạc Ma và Chữ Thập
thành đảo nhân tạo để lập căn cứ quân sự với những đường băng ngắn cho máy bay
quân sự đáp xuống. Trong tháng 12, dư luận quốc tế tố cáo Bắc Kinh đã âm thầm
thiết đặt Khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông. Trước những diễn
biến này, Bộ ngoại giao Việt Nam chỉ phản đối chiếu lệ trong khi dư luận người
Việt trong và ngoài nước gần như im tiếng vì thiếu thông tin.
Hèn
nhát hay đồng lõa ? Trong suốt năm 2014, Hà Nội đã có nhiều cơ hội để tố cáo
hành vi xâm chiếm và vi phạm lãnh hải của Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế
nhưng đã không làm. Các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã gần như không hề nhắc
tới hay lên án hành vi lấn át của Trung Quốc trên Biển Đông trong các diễn đàn
đa phương như Liên Hợp Quốc (ONU), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn
đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN+3
với Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS)… Chỉ khi bị chất vấn, những cấp
lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ miễn cưỡng trả lời chiếu lệ, như trường hợp Đại
tướng Phùng Quang Thanh tại Shangri-la hồi đầu tháng 6/2014. Giới quan sát quốc
tế đặt khá nhiều câu hỏi về thái độ của chính quyền cộng sản Việt Nam về chủ
quyền trên Biển Đông.
Những
vụ bắt-thả người chống đối, TPP và nhân quyền
Có
lẽ vì không có đủ dữ kiện để giải mật Hội nghị Thành Đô và thông tin về những
diễn biến trên Biển Đông, những người đấu tranh cho tự do và nhân quyền tập
trung chú ý vào những vụ việc đàn áp, bắt giữ và xét xử những người bất đồng
chính kiến.
Đã
có hàng trăm bài viết, phóng sự về những cuộc trấn áp này, qua đó tên tuổi những
người bất đồng chính kiến bị hành hung, giam cầm và xét xử trở thành nổi tiếng
và quen thuộc. Đáng chú ý nhất là hình ảnh những phụ nữ Việt Nam đi đầu trong
các vụ xuống đường đòi công lý và tố cáo Trung Quốc xâm lăng. Tên tuổi những
người như Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Minh Hạnh, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy
Quỳnh, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), Nguyễn Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Đoan
Trang, Lê Thị Phương Anh, Kim Chi, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu… đã trở thành
quen thuộc và được yêu mến. Về phía đối lập, có người vừa ra khỏi tù liền bị chết
như thầy giáo Đinh Đăng Định và Huỳnh Anh Trí vì bị đày đọa trong nhà lao. Nhiều
người đã bị đuổi ra khỏi nước ngay khi vừa ra khỏi tù như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn
Văn Hải (Điếu Cày). Những vụ hành hung và đánh trọng thương những nhà báo độc lập
như Huyền Trang, Trương Minh Đức, Huỳnh Ngọc Tuấn… đã được thông tin trực tuyến
tới các tổ chức nhân quyền và truyền thông quốc tế để cảnh báo chính quyền cộng
sản Việt Nam.
Chính
nhờ những thông tin này mà chính quyền cộng sản Việt Nam buộc phải làm một số
nhượng bộ như thỏa mãn 182/227 khuyến nghị về nhân quyền của UPR (Universal
Periodic Review-Kiểm điểm định kỳ phổ quát), trả tự do cho một số người chống đối
trong cố gắng tranh thủ cảm tình của giới lập pháp Mỹ để được chấp nhận vào Hiệp
định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP-Trans-Pacific Partnership).
Khi biết cơ hội gia nhập TPP bị đình hoãn, chính quyền cộng sản Việt Nam liền để
lộ bản chất chống tự do : tình trạng nhân quyền trong nước không những không được
cải thiện mà còn xử nặng thêm những người chống Trung Quốc. Đến gần cuối năm đợt
trấn áp đột ngột gia tăng, những người đã từng một thời là con cưng của chế độ
đã lần lượt bị bắt như các ông Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập (Quê Choa), Nguyễn
Ngọc Già (Nguyễn Đình Ngọc) về tội xuyên tạc.
Chính
sách ngoại giao tàu chiến
Về
ngoại giao, người ta thấy trong năm 2014 đã khởi động một phong trào viếng thăm
và tiếp đón tàu chiến và phái đoàn quân sự cao cấp đến từ các cường quốc hùng mạnh
nhất thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Ấn Độ, trong những quân cảng và hải cảng lớn
của Việt Nam. Cũng nên biết Mỹ và Ấn Độ là hai quốc gia chống đối mạnh mẽ nhất
chính sách bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Việt Nam cũng đón tiếp những
phái đoàn quân sự đến từ ASEAN, Nhật Bản, Nam Hàn và Pháp, nhiều hợp đồng mua
bán vũ khí đã được ký kết. Dư luận trong nước đã rất hồ hởi trước những cuộc
thăm viếng này, người dân hy vọng các cấp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam Việt
Nam trở nên sáng suốt và sớm đưa đất nước thoát khỏi sự kềm chế của Trung Quốc.
Nhật
Bản và Ấn Độ còn hứa trang bị và bán cho Việt Nam những loại tàu tuần tra biển
lớn hơn. Bộ ngoại giao Mỹ tuyên bố sẽ tháo gở những rào cảng để bán cho Việt
Nam các loại vũ khí sát thương.
Thật
ra chọn lựa của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khá rõ ràng. Trung Quốc là đối tác
chiến lược toàn diện. Nga vừa là đối tác chiến lược quân sự vừa là nhà cung cấp
vũ khí lớn nhất của Việt Nam. Hà Nội đã nhường cho Nga quyền xây dựng và khai
thác quân cảng chiến lược Cam Ranh, huấn luyện lực lượng tàu ngầm và tàu tên lửa
của hải quân, huấn luyện biệt đội tiêm kích Sukhoi và tổ hợp tên lửa phòng
không. Ấn Độ chỉ là đối tác quan trọng trong vai trò đào tạo chuyên viên sử dụng
tàu ngầm, tàu chiến và máy bay tiêm kích do Nga chế tạo.
Với
Hoa Kỳ, nghi ngại còn quá lớn. Sự hợp tác về quân sự, nếu có, không phải do tự
nguyện mà chỉ có thể xuất phát từ yêu cầu của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung
Quốc, cơ quan đỡ đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay.
Giải mã những sự kiện trong năm 2014
Giải
mật Hội nghị Thành Đô 1990
Khi
dư luận đòi chính quyền cộng sản Việt Nam giải mã Hội nghị Thành Đô tháng
09/1990, không một thông tin nào đã được đưa ra. Đảng và chính quyền cộng sản
Việt Nam rất lo sợ vì nếu tiết lộ, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không còn lý do tồn
tại và không những thế còn mang tội "bán nước".
Tuy
nhiên vào tháng 10/2014, một số chi tiết về Hội nghị Thành Đô đã được báo chí
ngoài luồn tiết lộ, theo đó hội nghị đã diễn ra trong một hoàn cảnh bất lợi cho
Đảng Cộng sản Việt Nam : Lời nói đầu của Hiến pháp 1980 đã được sửa lại (không
còn coi Trung Quốc là kẻ thù), buộc phải rút quân ra khỏi Campuchia không điều
kiện, thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số lãnh thổ dọc vùng biên giới
và lãnh hải, chấp nhận vai trò chủ động của doanh nghiệp Trung Quốc trong mọi
sinh hoạt tại Việt Nam. Nội dung của Hội nghị Thành Đô là một chuỗi dài những
thỏa thuận hợo tác chiến lược được đúc kết và thi hành từ sau 1990 đến nay giữa
hai đảng cộng sản. Một cách tóm tắt, sau Hội nghị Thành Đô, Đảng Cộng sản Việt
Nam hoàn toàn nằm dưới tay sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, toàn bộ mọi
sinh hoạt chính quyền, quân sự, ngoại gia, kinh tế và văn hóa của Việt Nam đều
do các cố vấn Trung Quốc chỉ đạo.
Và
nếu quan sát kỹ, nội dung của Hội nghị Thành Đô đã được công khai hóa qua hai
Tuyên bố chung ngày 21/06/2013 ở cấp Lãnh đạo và 15/10/2013 ở cấp Hành pháp
[cf. Bài đọc thêm ở phần cuối], theo đó hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp
tác chiến lược toàn diện trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, quốc phòng, ngoại
giao, an ninh đến kinh tế, tài chánh, xây dựng, giao thông và văn hóa. Nội dung
của hai Tuyên bố này là kết quả hơn 20 năm làm việc của những ủy ban chỉ đạo hợp
tác song phương và nhóm công tác do hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc chỉ
đạo. Có thể nói tất cả những chương trình hợp tác và hiệp định ký kết giữa hai
nước từ 1990 đến nay đều xuất phát từ đề xướng của những ủy ban này. Kim chỉ
nam hợp tác là phương châm 16 chữ vàng ("ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện") và tinh thần 4 tốt
("láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt") mà phía Việt
Nam cam kết triệt để tôn trọng.
Có
thể khẳng định không sợ sai rằng tất cả những sự kiện quan trọng tại Việt Nam
trong năm 2014 đều diễn ra đúng theo lộ trình đã vạch ra trong hai Tuyên bố
chung năm 2013.
Giàn
khoan HD981 và chính sách ngoại giao tàu chiến
Sự
hiện diện của giàn khoan Trung Quốc trên Biển Đông tuy gây kinh ngạc cho dư luận
người Việt và quốc tế nhưng không phải là một bất ngờ đối với chính quyền cộng
sản Việt Nam.
Điểm
7 trong Tuyên bố chung cấp Lãnh đạo (21/06/2013) cho biết hai bên đã ký
"Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam)
và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia của Trung Quốc (China National
Offshore Oil Corporation - CNOOC) liên quan tới Thỏa thuận thăm dò
chung trong khu vực thỏa thuận ngoải khơi trong vịnh Bắc bộ.
Theo
Điểm 5c của Tuyên bố chung cấp Thủ tướng ngày 15/10/2013 về hợp tác trên biển: "Hai
bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán
và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong
các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự
tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ,
đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong
năm nay [2013] khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa vịnh
Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài
cửa vịnh Bắc Bộ"... Điều này cho thấy phía Trung Quốc đã có phần chậm
trễ trong việc đưa giàn khoan HD981 tới vùng biển Việt Nam để thăm dò.
Chính
vì thế sự im lặng của chính quyền cộng sản Việt Nam trong suốt tháng 5/2014 là
"bình thường", vì phía Trung Quốc chỉ triển khai đúng theo những gì
đã thỏa thuận. Chuyện giàn khoan sở dĩ nổ to vì dư luận trong nước muốn biết rõ
sự thật nên chính quyền cộng sản Việt Nam buộc phải lên tiếng.
Việc
Trung Quốc xây dựng thêm đường băng trên các bãi đá Gác Ma và Chữ Thập cũng chỉ
là sự thi hành nội dung Điểm 4 của Tuyên bố chung cấp Lãnh đạo 21/06/2013 và Điểm
5c của Tuyên bố chung cấp Thủ tướng 15/10/2013 : "Hai bên nhất trí dựa
trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, gia tăng cường độ đàm phán
của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, vững bước thúc đẩy đàm
phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác
cùng phát triển tại vùng biển này, trong năm nay khởi động khảo sát chung tại
vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực
hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ".
Qua đó phía Việt Nam chỉ lên tiếng chiếu lệ rồi để sự kiện chìm vào quên
lãng.
Về
việc bắt bớ, giam cầm những tiếng nói bất đồng và chính sách ngoại giao tàu chiến
Trong
năm 2014, Hà Nội đã không ngừng sử dụng những điều 88 và 258 của Bộ Luật hình sự
để bắt bớ, giam cầm và kết án những người bất đồng chính kiến, đặc biệt là những
người chống Trung Quốc triệt để nhất.
Hành
vi đàn áp những tiếng nói bất đồng cũng chỉ là sự áp dụng nội dung Điểm 3, mục
vi của Tuyên bố chung 21/06/2013 : "Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp
tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, phát huy đầy đủ vai trò của
cơ chế Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm giữa Bộ Công an hai nước, tăng cường
các chuyến thăm cấp cao và đơn vị nghiệp vụ của cơ quan thực thi pháp luật hai
bên, thúc đẩy hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như phòng chống tội phạm
xuyên biên giới, giữ gìn trật tự trị an xã hội cũng như xây dựng năng lực thực
thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực thi pháp luật chung trên các
lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên giới hai nước. Hai bên nhất
trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ quan cảnh sát biển hai nước".Cũng
nên biết, trong Bộ Công an Việt Nam, không một lãnh vực nào không có sự giám
sát của cố vấn Trung Quốc : việc bắt bớ và phạt nặng những người chống Trung Quốc
là đương nhiên.
Theo
Điểm 4 của Tuyên bố chung ngày 15/10/2013, cơ cấu tổ chức của nhà nước Việt Nam
hoàn toàn dựa vào Trung Quốc : "Hai bên nhất trí tiếp tục sử dụng
tốt cơ chế của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt
Nam-Trung Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi trên các
lĩnh vực; thực hiện tốt "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc"; sử dụng tốt các
cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng, Kinh tế, Thương
mại, Công an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối ngoại Trung ương, Ban
Tuyên giáo của hai Đảng; tổ chức tốt Phiên họp Ủy ban chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm, Phiên họp Ủy
ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội thảo lý luận giữa hai Đảng; làm tốt các
công tác như Tham vấn Ngoại giao thường niên, Tham vấn An ninh-Quốc phòng, đào
tạo mở rộng cho cán bộ Đảng và Nhà nước; sử dụng hiệu quả đường dây điện thoại
trực tiếp giữa Bộ Quốc phòng, tăng cường định hướng đúng đắn báo chí và dư luận...
góp phần quan trọng cho việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, duy trì phát
triển ổn định quan hệ hai nước".
Điều
này cho thấy những cuộc trấn áp tiếng nói bất đồng trong những năm qua đều có sự
hợp tác của những cố vấn an ninh Trung Quốc. Sự kiện này làm nhớ lại thời kỳ
1946-1956, những cuộc đấu tố trong Cải cách ruộng đất và Nhân Văn - Giai Phẩm đều
có sự can thiệp của những cố vấn Trung Quốc. Những người xuống đường chống
Trung Quốc thường lãnh những án tù nặng nề hơn những tội phạm khác.
Cũng
qua Điểm 4 này, tất cả mọi sinh hoạt chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc
phòng, đào tạo cán bộ và truyền thông của Việt Nam đều có sự tham vấn của
chuyên viên Trung Quốc. Nhắc lại, trước khi Tuyên bố chung cấp Lãnh đạo ngày
21/6/2013 được ban hành, ngày 06/06/2013, đoàn cán bộ cao cấp chính trị của
Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 22 tuớng lĩnh và sĩ quan cao cấp là cán bộ
chủ trì công tác Đảng, công tác chính trị tại các đơn vị cấp chiến lược, chiến
dịch toàn quân, được đào tạo cơ bản, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và là nguồn
quy hoạch cho nhiệm kỳ tới. Theo chương trình khóa học, đoàn cán bộ chính trị cấp
cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ nghiên cứu 10 chuyên đề về các vấn đề lý
luận và thực tiễn trong công tác Đảng, công tác chính trị của Quân giải phóng
Nhân dân Trung Quốc. Cũng nên biết, theo cách tổ chức của đảng cộng sản và bộ
quốc phòng cộng sản Việt Nam, các chính ủy viên, nghĩa là những cán bộ làm công
tác đảng, mới là những cấp lãnh đạo thực sự.
Để
nắm chắc sự trung thành của quân đội Việt Nam đối với Trung Quốc, việc đào tạo
sĩ quan đều do Trung Quốc đảm nhận. Trong năm 2014, nhiều phái đoàn sĩ quan trẻ
trong những binh chũng chiến lược (hải quân, không quân, phòng không, thông tin
và và tình báo) của Việt Nam đã được cử sang Trung Quốc tập huấn. Còn trông cậy
gì vào những cấp lãnh đạo đảng, quân đội và công an do Trung Quốc đào tạo này ?
Một
sự kiện khó chối cãi là tất cả mọi hoạt động quân sự mang tính ngoại giao hay
quân sự nào của Việt Nam cũng đều phải thông báo Trung Quốc biết trước để nhận
huấn thị. Chẳng hạn những cuộc gặp gỡ quân sự và ngoại giao cấp cao giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ trong và ngoài nước. Cuộc viếng thăm xã giao 3 nước ASEAN hồi cupối
năm 2014 của hai tàu phóng tên lửa tiến tiến nhất của hải quân Việt Nam, HQ-011
và HQ-012 đã chỉ thực hiện sau khi ghé Trạm Đông, nơi đặt bộ chỉ huy Hạm Đội
Nam Hải của Trung Quốc, để được huấn luyện về tuần tra trên biển tháng 06/2013.
Vì
đã chọn Trung Quốc làm đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Đảng Cộng sản Việt
Nam không thể đi ngược với những cam kết thành văn này trong hai Tuyên bố chung
năm 2013. Những cuộc thăm viếng xã giao hay tập trận chung của tàu chiến Việt
Nam chỉ là một hình thức ủy nhiệm nhằm thu thập thông tin mà bộ quốc phòng và hải
quân Trung Quốc chưa có. Những cường quốc quân sự như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ
và Châu Âu biết rõ sự lệ thuộc này nhưng đang quan sát, thăm dò và tìm cách hóa
giải.
Dự
phóng nào cho năm 2015 ?
Theo
nội dung hai Tuyên bố cung Việt Nam - Trung Quốc năm 2013, Việt Nam và Trung Quốc
sẽ tiếp tục triển khai "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc". Một cách cụ thể, quan hệ
hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước sẽ tiếp tục trong năm 2015 và có thể
sẽ gia tăng cường độ vì nhiều cam kết chưa được thực hiện hay chưa hoàn tất
đúng thời hạn.
Về
tổ chức nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam : cố vấn Trung Quốc đảm nhiệm vai trò đào
tạo cán bộ đảng và nhà nước về lý luận và tuyên truyền, thanh lọc nhân sự kém
phẩm chất. Chiến dịch bài trừ và phòng chống tham nhũng tại Trung Quốc sẽ tiếp
tục xúc tiến đồng thời ở Việt Nam, đặc biệt nhắm vào những cấp lãnh đạo và
đại gia không chấp nhận đặt dưới quyền chỉ đạo của Trung Quốc.
Về
ngoại giao : cố vấn Trung Quốc sẽ giúp các cấp lãnh đạo trong Bộ Ngoại giao Việt
Nam trả lời trước các vấn đề nhạy cảm liên quan đến chính sách bá quyền và hình
ảnh Trung Quốc trên chính trường quốc tế. Dễ nhận thấy nhất là cách diễn giải của
ông Lê Hải Bình, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đúng theo trường
phái ngoại giao Trung Quốc. Trong khi đó Hà Nội sẽ tiếp tục ủng hộ lập trường của
Bắc Kinh trước các vấn dề lớn của thế giới..
Về
quốc phòng : cố vấn Trung Quốc sẽ tăng cường vai trò tham vấn chiến lược, đào tạo
sĩ quan cao cấp chính ủy và quân ủy tr quân đội, huấn nghiệp sĩ quan trẻ thuộc
các binh chũng trong quân đội Việt Nam. Nhiều cuộc tập trung chung trên đất liền
và trên biển giữa hai nước sẽ được tiến hành dưới các tên gọi chống khủng bố và
chống đỏ bộ. Trung Quốc sẽ phản đối chiếu lệ những cuộc tập trận chung giữa
quân đội Việt Nam với các nước bạn như ASEAN hay ANZUS và Hoa Kỳ, vì sau đó sẽ
có những buổi họp trao đổi kinh nghiệm với cố vấn Trung Quốc trong khuôn khỗ những
ủy ban công tác song phương. Chuyến viễn dương đầu tiên của đội tàu ngầm Việt
Nam, nếu có, chắc chắn sẽ là căn cứ tàu ngầm Du Lâm hoặc Tam Á trên đảo Hải Nàm
để được hướng dẫn công tác cụ thể.
Đặc
biệt trong năm 2015, doanh nhân và nhà đầu tư Trung Quốc sẽ đổ thêm vốn vào Việt
Nam để nắm vai trò chủ động trong sinh hoạt kinh tế của Việt Nam, đúng theo "Quy
hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn
2012-2016" và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hơn nữa hợp
tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng,
khoáng sản, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp tác khu vực
"Hai hành lang, một vành đai". Cụ thể là việc khởi công xây dựng
dự án đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội, dự án đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long
và dự án đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng, tất cả mọi kinh phí xây dựng do
Trung Quốc đài thọ với ý đồ vận chuyển tài nguyên khoáng sản Việt Nam về Trung
Quốc và đưa hàng hóa sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Điều này cho thấy chỉ
có doanh nghiệp Trung Quốc được quyền đầu tư xây dựng và khai thác các tuyến
giao thông chiến lược huyết mạch tại Việt Nam.
Một
vài điểm mới sẽ tiến hành trong năm 2015 là tiền tệ và giáo dục. Ngoài việc có
thể sử dụng đồng CNY (nhân dân tệ) làm đơn vị trao đổi tại vùng biên giới và vốn
đầu tư thay vì đồng USD (đôla Mỹ), đồng CNY có thể sẽ đề nghị lưu hành
song song với đồng VND ngay tại Việt Nam, và trên các thị trường chứng khoáng
quốc tế đồng VND có thể sẽ được đề nghị xếp chung cùng giỏ với đồng CNY. Tiếng
Quan thoại có thể sẽ là một trong hai sinh ngữ chính (tiếng Anh và tiếng Hoa)
được giảng dạy trong chương trình giáo khoa như "Thỏa thuận hợp tác
giáo dục giai đoạn 2011 - 2015" và "Kế hoạch hành động thực hiện
Hiệp định Văn hóa Việt-Trung giai đoạn 2013-2015" đã nêu ra.
Về
văn hóa, đúng như thỏa thuận đã ghi trong hai Điểm 6 và 9 của Tuyên bố chung cấp
Thủ tướng 15/10/2013, Viện Khổng tử đầu tiên đã được hoàn tất trong khuôn viên
Đại học Hà Nội hồi cuối năm 2014.
Nhưng
điều có thể gây phẫn nộ là sự khuyến khích thành lập khu tự trị dọc vùng biên
giới Việt - Trung. Điểm 3, mục (xi) ghi : "Hai bên nhất trí tăng
cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa
7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng
Tây, Hải Nam, Vân Nam; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa
phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương
mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…; thúc đẩy các
tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển". Rõ ràng đây
là một âm mưu tách 7 tỉnh dọc vùng biên giới của Việt Nam, nơi có đông người
thiểu số sinh sống ra khỏi lãnh thổ, để sát nhập vào Trung Quốc dưới chiêu bài
"tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước".
Về điểm này, ủy ban hợp tác song phương do hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung
Quốc chỉ đạo đã xúc tiến những cuộc bàn thảo kỹ thuật nhưng chưa công khai nói
ra. Trong thực tế, những cán bộ lãnh đạo người thiểu số thuộc các đảng ủy địa
phương đã thường xuyên được đưa sang Trung Quốc, thực ra là Quảng Đông, huấn
nghiệp. Có thể từ nay, tỉnh ủy Quảng Đông sẽ là cơ quan quản lý và chỉ đạo hành
chính "khu tự trị" mới này.
Dư
luận người Việt sẽ thêm bất mãn khi biết hai bên đã "thúc đẩy đàm phán
về "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực
thác Bản Giốc" sớm đạt được tiến triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm
phán mới và đạt nhất trí về "Hiệp định tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực
cửa sông Bắc Luân", sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua biên giới như cầu
đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền tảng cho sự ổn định
và phát triển của khu vực biên giới hai nước", bất chấp chủ quyền của
Việt Nam. Không chiếm được những thắng cảnh đẹp của Việt Nam bằng vũ lực, phía
Trung Quốc đề nghị hợp tác chia đôi quyền lợi, quả là khôn ngoan.
Một
vấn đề có thể gây thêm bất mãn khác nũa là "Hiệp định hợp tác nghề cá
trong Vịnh Bắc Bộ". Hiệp định này đã là một tai họa về kinh tế và nhân
mạng cho ngư dân Việt Nam sinh sống dọc vùng bờ biển, và còn là một chèn ép đối
với sinh hoạt nghề cá tại Việt Nam vì ngư dân Trung Quốc có quyền đánh bắt cá
trong lãnh hải Việt Nam trong khi ngư dân Việt Nam không được bén mãng tới khu
vực đánh cá thuộc lãnh hải Trung Quốc.
Ngoài
ra, trong quan hệ quốc tế, cho dù phía Trung Quốc có sai trái hay bị dư luận thế
giới chỉ trích như thế nào, phía Việt Nam không những sẽ không lấy thái độ hay
đưa ra những tuyên bố xúc phạm đến Trung Quốc, đặc biệt là trên các diễn đàn quốc
tế, mà còn tìm cách bênh vực và bao che nếu có cơ hội.
Nói
chung, dựa vào những gì đã xảy ra trong năm 2014 và đào sâu nội dung của Tuyên
bố chung Việt Nam - Trung Quốc năm 2013, viễn ảnh Việt Nam trong năm 2015 không
lấy gì làm sáng sũa : càng lún sâu vào sự lệ thuộc.
Đây
là một sự lún sâu đầy chủ ý chứ không do bị cưỡng chế. Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết tâm gắn liền sinh mạng của nước Việt Nam vào Trung Quốc, bất chấp nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam. Quyết tâm này có thể là giải pháp thoát hiểm cho Đảng
Cộng sản Việt Nam nhưng là một tội lớn đối với dân tộc : tội bán nước.
Nguyễn
Văn Huy
Bài
đọc thêm
:
Thứ
sáu, 21/6/2013
Việt Nam, Trung Quốc ra tuyên bố chung
Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang hôm nay kết thúc chuyến thăm Trung Quốc theo lời mời
của Chủ tịch Tập Cận Bình. Lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung Việt Nam -
Trung Quốc.
Sau đây là toàn văn
Tuyên bố chung :
1.
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trương Tấn Sang đã thăm cấp Nhà nước nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 6 năm 2013.
Trong
thời gian chuyến thăm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Chủ tịch nước
Tập Cận Bình; lần lượt hội kiến Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên
trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang.
Trong không khí thẳng thắn, hữu nghị, Lãnh đạo hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến
và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược
toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu
vực cùng quan tâm.
Ngoài
Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thăm tỉnh Quảng Đông.
2.
Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ Việt-Trung, nhất trí cho rằng
tình hữu nghị Việt-Trung là tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước, khẳng
định sẽ tuân theo các nhận thức chung quan trọng mà Lãnh đạo hai nước đã đạt được
trong những năm qua về phát triển quan hệ hữu nghị Việt-Trung, tiếp tục kiên
trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt", không ngừng tăng cường tin cậy chiến lược, làm sâu
sắc thêm hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn
tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực,
thúc đẩy quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài.
3.
Việt Nam và Trung Quốc đều đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát
triển kinh tế-xã hội. Hai bên coi sự phát triển của nước kia là cơ hội phát triển
của nước mình, nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng
tâm là các lĩnh vực dưới đây :
(i)
Duy trì tiếp xúc cấp cao thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm
song phương, điện đàm qua đường dây nóng, gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa
phương... để tăng cường trao đổi chiến lược, nắm vững phương hướng đúng đắn
phát triển quan hệ hai nước. Phía Việt Nam hoan nghênh lãnh đạo Trung Quốc sớm
sang thăm Việt Nam, phía Trung Quốc hoan nghênh Lãnh đạo Việt Nam sang thăm và
tham dự các Hội nghị tại Trung Quốc.
(ii)
Hai bên đánh giá tích cực kết quả Phiên họp lần 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam-Trung Quốc, nhất trí tiếp tục sử dụng tốt cơ chế quan trọng
này, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi
ích hơn cho nhân dân hai nước. Hai bên nhất trí cùng nhau thực hiện tốt
"Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Việt Nam-Trung Quốc" được ký kết trong chuyến thăm này, thúc đẩy hợp
tác thực chất giữa hai nước đạt được tiến triển mới.
(iii)
Hai bên hài lòng trước sự phát triển của quan hệ hai Đảng trong những năm qua,
nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp
tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo, Tuyên truyền của hai Đảng vận
hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước.
Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ, cùng nhau tổ chức tốt Hội thảo lý luận hai
Đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng và quản
lý đất nước, thúc đẩy xây dựng Đảng và đất nước ở mỗi nước.
(iv)
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, thực hiện tốt
Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì trao đổi thường xuyên giữa
lãnh đạo hai Bộ Ngoại giao, tổ chức Tham vấn Ngoại giao thường niên và tăng cường
giao lưu cấp Cục, Vụ giữa hai Bộ Ngoại giao.
(v)
Hai bên đánh giá tích cực kết quả Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng lần thứ 4, nhất trí duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước,
phát huy tốt vai trò của cơ chế Đối thoại chiến lược quốc phòng và đường dây điện
thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng để tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đi sâu
trao đổi kinh nghiệm công tác Đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào
tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ. Thực hiện tốt "Thỏa thuận hợp tác biên
phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam-Trung Quốc" (sửa đổi) ký kết
trong chuyến thăm này, tiếp tục triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền.
Làm sâu sắc thêm hợp tác biên phòng trên đất liền và trên biển, trong năm nay
triển khai hai đợt tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ.
Tăng cường trao đổi và điều phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực.
Trao đổi nghiên cứu hình thức mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc
phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước.
(vi)
Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và
an ninh, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm
giữa Bộ Công an hai nước, tăng cường các chuyến thăm cấp cao và đơn vị nghiệp vụ
của cơ quan thực thi pháp luật hai bên, thúc đẩy hợp tác thực chất trong các
lĩnh vực như phòng chống tội phạm xuyên biên giới, giữ gìn trật tự trị an xã hội
cũng như xây dựng năng lực thực thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực
thi pháp luật chung trên các lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên
giới hai nước. Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ
quan cảnh sát biển hai nước. Hai bên nhất trí sớm khởi động đàm phán về
"Hiệp định dẫn độ Việt-Trung" trong nửa cuối năm nay.
(vii)
Hai bên nhất trí tăng cường điều phối chiến lược về phát triển kinh tế, thực hiện
tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai
đoạn 2012-2016" và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hơn nữa
hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải,
năng lượng, khoáng sản, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp
tác khu vực "Hai hành lang, một vành đai."
Hai
bên sẽ sử dụng tốt cơ chế Ủy ban Hợp tác kinh tế-thương mại song phương, thực
hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng
nông sản giữa Bộ Công Thương Việt Nam với Bộ Thương mại Trung Quốc"; hai
bên nhất trí tích cực áp dụng các biện pháp hữu hiệu, quyết liệt để thúc đẩy
cân bằng thương mại song phương trên cơ sở đảm bảo thương mại song phương tăng
trưởng ổn định, cố gắng hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch
thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD. Tiếp tục thúc đẩy xây dựng các dự án hợp
tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, khu công
nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, trong đó ưu tiên thúc đẩy xây dựng các dự
án đường bộ và đường sắt kết nối khu vực biên giới trên bộ hai nước như tuyến
đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội...
Hai
bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều kiện
và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các
dự án hợp tác song phương. Tiếp tục thúc đẩy tiện lợi hóa thương mại và đầu tư
song phương, bao gồm khuyến khích thanh quyết toán bằng đồng bản tệ trong trao
đổi mậu dịch tại khu vực biên giới. Khuyến khích doanh nghiệp nước mình sang nước
kia đầu tư, tạo điều kiện an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu
tư.
(viii)
Hai bên nhất trí tiếp tục làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp,
hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương về nông nghiệp, tăng cường giao lưu khoa
học kỹ thuật nông nghiệp và nâng cao năng lực trong lĩnh vực nông nghiệp, nhân
rộng các loại giống cây trồng nông nghiệp sản lượng cao và chất lượng tốt, bao
gồm các loại giống lúa lai, thúc đẩy ngành chế biến và thương mại hàng nông sản
phát triển, tập trung thúc đẩy xây dựng hệ thống phòng chống dịch bệnh động thực
vật xuyên biên giới và an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu, nâng cao khả năng dự
báo và mức độ chia sẻ thông tin.
(ix)
Tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, thực hiện tốt "Thỏa
thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011 - 2015", "Kế hoạch hành động thực
hiện Hiệp định Văn hóa Việt-Trung giai đoạn 2013-2015", sớm hoàn thành việc
xây dựng Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia, tăng cường hợp tác trong
các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực. Hai bên nhất trí tổ chức Liên
hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ 2 vào nửa cuối năm nay tại Trung Quốc, đồng
thời tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung,
Diễn đàn nhân dân Việt-Trung…, tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị Việt-Trung
để gia tăng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
(x)
Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực khoa học công
nghệ, phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban hợp tác về khoa học công nghệ giữa
Chính phủ hai nước, khuyến khích và ủng hộ giới nghiên cứu và ứng dụng khoa học
công nghệ hai nước triển khai hợp tác với nhiều hình thức như cùng nghiên cứu
và phát triển, cùng xây dựng phòng thí nghiệm chung, chuyển giao công nghệ…
trong các lĩnh vực hai bên quan tâm như nông nghiệp, công nghệ thông tin, năng
lượng mới, bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước…
(xi)
Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới
hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm
Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác
liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực
kinh tế - thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y
tế…; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển.
(xii)
Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban
Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước; đánh giá tích cực việc hai nước
thành lập Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới trong chuyến thăm lần này;
đồng ý thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cửa khẩu biên giới giữa hai nước; tăng
cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng của các cửa khẩu biên giới, cải thiện
điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hóa, phương tiện qua
cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế - thương mại giữa hai
nước. Sớm khởi động việc xây dựng cầu Bắc Luân II Việt-Trung. Hai bên nhất trí
tổ chức vòng đàm phán mới "Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại
khu vực cửa sông Bắc Luân" và "Hiệp định về hợp tác và khai thác phát
triển du lịch khu vực thác Bản Giốc" vào nửa cuối năm nay, cố gắng sớm đạt
được tiến triển thực chất. Hai bên sẽ tăng cường trao đổi và hợp tác kỹ thuật
trong các lĩnh vực quản lý sông suối biên giới, phòng chống thiên tai lũ lụt, sử
dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên sông suối xuyên biên giới.
(xiii)
Hai bên sẽ tiếp tục thực hiện tốt "Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc
Bộ"; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực
đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đánh giá cao "Thỏa thuận giữa Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc
thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề
cá trên biển" được ký kết trong chuyến thăm lần này, xử lý thỏa đáng các vụ
việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa hai nước phù hợp với
quan hệ hai nước.
4.
Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí việc
Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề
trên biển Việt Nam-Trung Quốc, chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề
trên biển xuất phát từ tầm cao chiến lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên
sẽ nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc", sử dụng tốt các cơ chế như
đàm phán biên giới lãnh thổ cấp Chính phủ..., kiên trì thông qua hiệp thương và
đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể
chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng
đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc
vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Hai
bên nhất trí dựa trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, gia tăng
cường độ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, vững bước
thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy
hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, trong năm nay khởi động khảo sát
chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp
tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò
chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa
doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận,
kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với
cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến
triển tích cực.
Hai
bên nhất trí gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác
trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung, trong năm nay thực hiện một
đến hai dự án hợp tác trong số ba dự án đã thỏa thuận, bao gồm Dự án về phối hợp
tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, Dự án hợp tác nghiên cứu
quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ và Dự án nghiên cứu so sánh
trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường
Giang; tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển,
nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và
kết nối giao thông trên biển.
Trước
khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình
tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời
sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại
giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không
để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn
định tại Biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả
"Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), cùng nhau
duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
5.
Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng
hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống
nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập"
dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với
Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.
6.
Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc cùng là hai nước đang phát triển, có lập
trường tương tự và gần nhau trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan
tâm. Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa
phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội
nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung-Nhật-Hàn, Hội
nghị cấp cao Đông Á..., cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của
thế giới.
Hai
bên nhất trí lấy năm nay - năm kỷ niệm 10 năm ASEAN và Trung Quốc thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược, làm cơ hội để thực hiện toàn diện nhận thức chung
mà Lãnh đạo các nước ASEAN và Lãnh đạo Trung Quốc đã đạt được, tổ chức tốt các
hoạt động kỷ niệm 10 năm, không ngừng mở rộng và làm sâu sắc thêm hợp tác giữa
ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế-thương mại, kết nối giao thông,
hải dương, xã hội nhân văn..., đóng góp nhiều hơn nữa cho hòa bình, ổn định và
thịnh vượng của khu vực.
7.
Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký "Chương trình hành động giữa
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ Đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc", "Thỏa thuận hợp tác
biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Trung Quốc" (sửa đổi),
"Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông Việt Nam và Bộ
Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát
sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển", "Thỏa thuận giữa Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục giám sát chất lượng,
kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch
động thực vật xuất nhập khẩu", "Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác
quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc", "Bản ghi nhớ
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn
hóa tại hai nước", "Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn
2013-2017 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại
nhân dân Trung Quốc", "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu
khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới
Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ"
và nhiều văn kiện hợp tác kinh tế khác.
8.
Hai bên hài lòng trước những kết quả đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhất trí cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng
trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
cảm ơn sự đón tiếp nhiệt tình, hữu nghị của phía Trung Quốc và mời Chủ tịch nước
Tập Cận Bình thăm Việt Nam. Chủ tịch nước Tập Cận Bình bày tỏ cảm ơn.
Bắc
Kinh, ngày 21 tháng 6 năm 2013
Theo TTXVN
Nguồn : vietnamplus.vn
Theo TTXVN
Nguồn : vietnamplus.vn
***
Thứ
Ba, 15/10/2013
Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc
Hôm
nay (15/10), tại Hà Nội, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về chuyến
thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa Lý Khắc Cường.
Báo
điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn Tuyên bố chung :
1.
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa Lý Khắc Cường đã thăm chính thức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 10 năm 2013.
Trong
thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã hội đàm với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng; hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Trong
không khí chân thành, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đi sâu trao đổi
ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến
lược toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như tình hình quốc tế, khu
vực hiện nay và các vấn đề cùng quan tâm.
2.
Hai bên đã nhìn lại và đánh giá cao sự phát triển quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc, khẳng định sẽ tuân theo những nhận thức chung quan trọng
mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, phát triển quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm "Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần
"Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".
Hai
bên nhất trí cho rằng, trong tình hình kinh tế, chính trị quốc tế diễn biến phức
tạp hiện nay, việc hai bên tăng cường trao đổi chiến lược, làm sâu sắc thêm hợp
tác thực chất, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và
phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực, thúc đẩy quan hệ hai nước phát
triển lành mạnh, ổn định lâu dài phù hợp lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước
và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực
cũng như thế giới.
3.
Hai bên đánh giá cao vai trò quan trọng không thể thay thế của
tiếp xúc cấp cao giữa hai nước, nhất trí tiếp tục duy trì tiếp
xúc và thăm viếng cấp cao, xuất phát từ tầm cao chiến lược nắm vững phương
hướng phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới.
Đồng
thời, thúc đẩy trao đổi cấp cao qua nhiều hình thức như gặp gỡ bên lề các diễn
đàn đa phương, sử dụng tốt đường dây nóng giữa Lãnh đạo cấp cao để đi sâu trao
đổi các vấn đề trọng đại trong quan hệ song phương cũng như các vấn đề cùng
quan tâm.
4.
Hai bên nhất trí tiếp tục sử dụng tốt cơ chế của Ủy
ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp
tác cùng có lợi trên các lĩnh vực; thực hiện tốt "Chương trình hành động
triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc";
sử dụng tốt các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng,
Kinh tế, Thương mại, Công an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối ngoại
Trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng; tổ chức tốt Phiên họp Ủy ban chỉ đạo hợp
tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm,
Phiên họp Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội thảo lý luận giữa hai Đảng;
làm tốt các công tác như Tham vấn Ngoại giao thường niên, Tham vấn An ninh-Quốc
phòng, đào tạo mở rộng cho cán bộ Đảng và Nhà nước; sử dụng hiệu quả đường dây
điện thoại trực tiếp giữa Bộ Quốc phòng, tăng cường định hướng đúng đắn báo chí
và dư luận... góp phần quan trọng cho việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên,
duy trì phát triển ổn định quan hệ hai nước.
5.
Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác
quan trọng của nhau, đều đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển
kinh tế-xã hội, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai nước, trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi, hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược
toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới đây :
a.
Về hợp tác trên bộ :
(i)
Hai bên nhất trí nhanh chóng thực hiện "Quy hoạch phát triển 5
năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016" và Danh mục
các dự án hợp tác trọng điểm; thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng
giữa hai nước để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án cụ thể; sớm đạt nhất
trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án đường bộ cao tốc Lạng
Sơn-Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng.
Hai
bên sẽ tích cực thúc đẩy dự án đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long, phía Trung Quốc
ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc tham gia dự án này theo
nguyên tắc thị trường, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động vốn trong khả năng.
Các bộ, ngành hữu quan hai nước đẩy nhanh công tác, sớm khởi động nghiên cứu khả
thi dự án đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.
Hai
bên nhất trí thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về việc xây dựng các khu hợp tác
kinh tế qua biên giới", tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết "Hiệp định
thương mại biên giới Việt-Trung" (sửa đổi) nhằm phát huy vai trò tích cực
thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.
(ii)
Hai bên đồng ý tăng cường điều phối chính sách kinh tế thương mại, thực
hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng
nông sản" và "Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc tiến Thương mại nước
này tại nước kia", để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ sở
bảo đảm thương mại tăng trưởng ổn định, phấn đấu hoàn thành trước thời hạn mục
tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD.
Phía
Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu hàng hóa có
tính cạnh tranh của Việt Nam, ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đầu
tư kinh doanh, đồng thời sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh
nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc mở rộng thị trường.
Phía
Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công nghiệp Long Giang và
Khu công nghiệp An Dương. Hai bên sẽ đẩy nhanh thi công, thúc đẩy sớm hoàn
thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.
(iii)
Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp,
khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, y tế…
(iv)
Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp
biên giới trên đất liền giữa hai nước, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch
công tác hằng năm; tiến hành Hội nghị lần thứ nhất Ủy ban hợp tác quản lý
cửa khẩu giữa hai nước, thúc đẩy công tác mở cửa, nâng cấp một số cặp cửa khẩu
biên giới trên bộ, sớm chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô-Động Trung;
thúc đẩy đàm phán về "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài
nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" sớm đạt được tiến triển thực chất, sớm
khởi động vòng đàm phán mới và đạt nhất trí về "Hiệp định tàu thuyền tự do
đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân", sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua
biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền
tảng cho sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới hai nước.
Hai
bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất
là giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước; phát huy vai
trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.
b.
Về hợp tác tiền tệ :
Hai
bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều
kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch
vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư.
Trên cơ sở Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại
biên giới ký giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003, tiếp tục nghiên cứu
việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ, thúc đẩy trao đổi thương mại
và đầu tư hai bên.
Hai
bên quyết định thành lập Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để
nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định
và phát triển kinh tế hai nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối hợp đa
phương, cùng nhau thúc đẩy hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông Á.
c.
Về hợp tác trên biển :
Hai
bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc",
sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung
Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp
cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải
pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên
bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo
tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng
phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới
lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai
bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán
và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong
các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự
tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ,
đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong
năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ để thực hiện
nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Nhanh
chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như
hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ; nghiên
cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ
sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường
biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên
tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai
bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không
có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường
dây nóng quản lý, kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước,
đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng
thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm
soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên
Biển Đông.
6.
Hai bên nhất trí tổ chức tốt các hoạt động như Liên hoan
Thanh niên Việt-Trung lần thứ hai; Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung; Liên
hoan nhân dân Việt-Trung… nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự
nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí thành lập Viện Khổng Tử tại
Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia,
thiết thực tăng cường tuyên truyền về quan hệ hữu nghị Việt-Trung, làm sâu sắc
sự hiểu biết và hữu nghị giữa người dân hai nước.
7.
Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng
hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự
nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ
"Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất
cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường
trên của Việt Nam.
8.
Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa
phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại thế giới, Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương, Diễn đàn Hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị
Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 với Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị
Cấp cao Đông Á… cùng nhau nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của
thế giới.
Hai
bên đánh giá cao những thành tựu to lớn đạt được trong phát triển
quan hệ ASEAN-Trung Quốc, nhất trí lấy dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc làm cơ hội tăng cường hơn nữa tin cậy chiến
lược. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc về việc ký kết "Điều
ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc", nâng cấp
Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, thành lập Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng
châu Á. Việc ASEAN và Trung Quốc triển khai hợp tác rộng rãi có vai trò hết sức
quan trọng đối với thúc đẩy hòa bình, ổn định, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau tại
khu vực Đông Nam Á.
Hai
bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả "Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên ở Biển Đông" (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau
duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của
"Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở đồng
thuận, nỗ lực hướng tới thông qua "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông"
(COC).
9.
Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký "Hiệp định về việc mở
Cơ quan Xúc tiến thương mại nước này tại nước kia", "Bản ghi nhớ về
xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới", "Bản ghi nhớ về việc
thành lập Nhóm công tác hỗn hợp hỗ trợ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực
hiện tại Việt Nam", "Hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà
Lùng-Thủy Khẩu" và Nghị định thư kèm theo, "Dự án hợp tác nghiên cứu
quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ", "Dự án nghiên cứu
so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông
Trường Giang", "Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường
Đại học Hà Nội" và một số văn kiện hợp tác kinh tế.
10.
Hai bên bày tỏ hài lòng về kết quả chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng
Trung Quốc Lý Khắc Cường, nhất trí cho rằng chuyến thăm lần này
có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển
và hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực.
Hà
Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2013
Theo
TTXN
Nguồn : baodientu.chinhphu.vn
Nguồn : baodientu.chinhphu.vn
No comments:
Post a Comment