Lê Thương
20/01/2015
Huy
hiệu Hải Quân VNCH
Trận
hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa-Trường Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải
quân Trung Cộng bắt nguồn từ ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng lên tiếng tuyên bố
các quần đảo này thuộc lãnh thổ của họ, đồng thời họ gởi nhiều tàu chiến ngụy
trang tàu đánh cá đổ quân lên các đảo lân cận.
Ngày
hôm sau, 12-1-1974, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc cực lực bác bỏ
những luận điệu ngang ngược, vô căn cứ nầy và mạnh mẽ lên án trước dư luận thế
giới về ý đồ xâm lăng của Trung Cộng. Để bảo tồn sự vẹn toàn lãnh thổ, ngày
15-1-1974, Bộ Tư lệnh hải quân Việt Nam phái Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16
ra tăng cường tuần tiễu và bảo vệ các quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam ta. Ngày xưa, vị anh hùng Lý Thường Kiệt mang gươm đi đánh Tống,
ngày nay con tàu mang tên ông cũng đang lướt sóng trực chỉ Biển Đông, sẵn sàng
chống giữ Hoàng Sa.
Phóng
đồ trận Hoàng Sa.
Hạm
trưởng HQ16 là Hải quân trung tá Lê Văn Thự, xuất thân từ khóa 10 Trường sĩ
quan hải quân Nha Trang, chiến hạm có chở theo phái đoàn công binh gồm thiếu tá
Hồng, 2 sĩ quan cấp úy và 2 trung sĩ công binh để khảo sát địa thế cho kế hoạch
thiết lập một phi trường trên đảo nầy, ngoài ra còn có ông Gerald Emil Kosh thuộc
cơ quan DAO của Hoa Kỳ ở Đà Nẳng đi theo cho biết đảo. Chiến hạm đến Hoàng Sa
vào lúc chiều tối ngày 15-1-1974. đêm đó con tàu bỏ neo trong vùng chờ trời
sáng sẽ đưa phái đoàn vào đảo.
Đêm
không trăng, bầu trời cao thăm thẳm lấp lánh những vì sao, tiếng sóng vỗ rì rào
quanh mạn con tàu. Thật là đêm bình yên thơ mộng giữa trùng dương mênh mông đối
với những chàng lính biển. Quân chủng Hải quân như một người cha, luôn luôn mở
rộng vòng tay âu yếm đón nhận những chàng trai trẻ mang mộng hải hồ vào đại gia
đình “áo trắng”. Có biết bao nhiêu thiếu nữ yêu kiều đã gởi con tim mình cho những
người lính áo trắng mà “mỗi bến nước là một bến tình” cho nên bị dân gian “mắng
yêu” bằng hai câu ca dao dễ thương:
Đường
nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo,
Lính
nào xạo cho bằng lính Hải Quân.
Buổi
sáng ngày 16-1-1974, HQ16 cho xuồng đổ bộ phái đoàn công binh lên đảo Pattern,
công tác hoàn tất tốt đẹp. Đến trưa, vị sĩ quan trực Quart 1200-1500H là hải
huân trung úy Đào Dân bỗng phát hiện một con tàu lạ trước mặt đảo Cam Tuyền (đảo
Robert), chiếc tàu nhỏ, cỡ tàu đánh cá. Chiến hạm đánh đèn yêu cầu tàu lạ cho
biết xuất xứ, đúng theo qui luật hàng hải quốc tế nhưng tàu lạ vẫn im lặng. Để
gợi sự chú ý và cũng để đuổi tàu lạ ra khỏi lãnh hải, chiến hạm cho bắn chỉ
thiên một tràng đại liên 30. Tiếng súng nổ ròn rã giữa buổi trưa yên tĩnh trên
mặt biển nhưng đối tượng vẫn lì lợm, không nhúc nhích. Khi tàu ta đến gần hơn
thì mọi người đều chưng hửng vì tàu lạ là tàu Trung Cộng, mang cờ nền đỏ với
các ngôi sao vàng ở ngay góc. Sự xuất hiện của chiến hạm Việt Nam cũng làm khuấy
động sự sinh hoạt trên tàu Trung Cộng, hàng chục binh sĩ của họ lên boong nhìn
sang tàu ta bằng những đôi mắt soi mói, kỳ lạ lẫn ngạc nhiên.
Tuần
dương hạm Lý Thường Kiệt HQ.16
Hạm
trưởng HQ16 khẩn báo về Bộ Tư lệnh hải quân để xin chỉ thị, đồng thời cho nhân
viên dùng đèn, dùng cờ, dùng máy phóng thanh yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi hải
phận Việt Nam. Lúc đầu cuộc đối thoại như với người câm nhưng sau đó họ cũng
dùng loa phóng thanh cầm tay yêu cầu ta ra khỏi lãnh hải Trung Quốc. Hai bên tiếp
tục đấu võ mồm suốt cả buổi chiều ngày 16-1-1974 mà không bên nào nhượng bộ.
Đêm đến, HQ16 phải lui ra xa để giữ an toàn cho chiến ham. Buổi sáng ngày
17-1-1974, ta lại phát hiện thêm một tàu địch cạnh đảo Vĩnh Lạc (đảo Money) và
hàng trăm lá cờ Trung Cộng được cắm dọc bờ biển. Chỉ có đảo Cam Tuyền mà HQ16
đang ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó.
Ngay
khi nhận được báo cáo của HQ16 phát hiện tàu Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt
Nam, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh hải quân Vùng I Duyên hải chỉ thị cho
Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 ra Hoàng Sa tăng cường. Khu truc hạm Trần Khánh
Dư, chiến hạm mang tên danh tướng đã oanh liệt chiến thắng trận Vân Đồn, mở đầu
cho trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của quân dân ta dưới thời
nhà Trần ra đến Hoàng Sa khoảng 2:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, chở theo một
trung đội người nhái (Navy Seal).
Khu
trục ham Trần Khánh Dư HQ.4
Hạm
trưởng HQ4 là hải quân trung tá Vũ Hữu San, Khóa 11, khi nhập vùng đã hợp với
HQ16 có những hành động tức thời để uy hiếp lực lượng Trung Cộng. Chiếc HQ16 vận
chuyển từ phìa bắc Hoàng Sa xuống trong khi HQ4 từ phía nam đảo Vĩnh Lạc tiến
lên, tạo thế gọng kìm, kẹp chặt 2 tàu địch vào giữa. Thấy lực lượng Hải quân Việt
Nam được tăng cường, địch di chuyển ra khỏi đảo Cam Tuyền nhưng vẫn bám vùng.
Tàu ta tiếp tục tiến đến gần hơn, sát tàu địch. Hai phe lại dùng loa phóng
thanh trao đổi yêu sách, bên nầy đòi bên kia rời khỏi lãnh hải của mình. Địch
không rời mà còn lải nhải mãi khiến trung tá Vũ Hữu San tức giận, mặt ông đỏ
gay, ông vung nắm tay về hướng tàu địch lúc đó đang ở rất gần, quát lớn “bọn bố
láo”, đoạn ông ra lệnh cho HQ4 dùng mũi húc vào chiếc tàu địch nầy để đẩy nó
ra. HQ4 to lớn, gồ ghề, 3 tầng kiến trúc với đài chỉ huy cao nghều nghệu trong
khi tàu Trung Cộng nhỏ hơn, thấp hơn nên bị tàu ta húc bể một lỗ lớn ở đài chỉ
huy. Trước hành động quyết liệt nầy, 2 tàu Trung Cộng đành nhượng bộ, bỏ chạy về
hướng đảo Duy Mộng và Quang Hòa.
Ngư
thuyền võ trang TC khiêu khích cản đường vận chuyển Khu truc hạm HQ.4
Sau
khi đuổi được hai tàu Trung Cộng, theo đặc lệnh hành quân, Tuần dương hạm HQ16
liền cho đổ bổ bộ toán nhân viên cơ hữu của tàu gồm 15 người lên đảo Cam Tuyền,
mang theo súng ống, đạn dược, máy truyền tin và lương khô đủ dùng trong 3 ngày,
do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán đổ bộ nầy đã hoàn tất công tác dẹp cờ
Trung Cộng và cắm cờ Việt Nam Cộng hòa mà không gặp sự kháng cự nào của địch.
Tiếp đó, HQ4 cũng cho đổ bộ 13 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc. Tại đây,
Trung Cộng có 3 tàu neo gần đó, khi thấy lực lượng Việt Nam đổ quân họ lặng lẽ
rút lui mà không chống trả.
Đến
khoảng 6:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, phe Trung Cộng được tăng cường thêm 2 Hộ
tống hạm Kronstadts mang số 271 và 274. Đặc tính của loại Kronstadt là mình hẹp,
lườn thấp, có vận tốc cao để săn đuổi tàu ngầm, dài 170 ft, ngang 21.5 ft, 2
máy, 2 chân vịt, vận tốc 24 knots, trang bị 1 hải pháo 100 ly (3.5 inch) ở sân
trước và 2 đại bác 37 ly ở sân sau, 2 giàn thả thủy lựu đạn (Depth Charges) và
2 giàn thả mìn, thủy thủ đoàn khoảng 65 người. Vừa tới, 2 chiếc Kronstadts nầy
từ phía đảo Quang Hòa hùng hổ xả hết tốc lực về hướng HQ4 và HQ16 với thái độ
khiêu khích, thách thức. Không một chút nao núng, với đội hình tác chiến, 2 chiến
hạm ta hùng dũng rẽ sóng xông lên nghênh cản tàu địch, đồng thời đánh quang hiệu
yêu cầu địch ra khỏi hải phận Việt Nam. Địch cũng dùng quang hiệu yêu cầu ngược
lại. Đôi bên trao đổi tín hiệu gần một tiếng đồng hồ mà không có kết quả nhưng
trước thái độ cứng rắn của Việt Nam Cộng Hòa, 2 chiếc Kronstadts đành nhập đoàn
với các tàu Trung Cộng khác lui về bố trí tại hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng.
Hộ
tống hạm Kronstadt 271 và 274 HQTC.
Trong
khi tình hìng đang căng thẳng ngoài Hoàng Sa thì ở đất liền, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu bay ra Vùng I và được Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại thuyết trình vào lúc
8:00 giờ sáng ngày 17-1-1974 về lịch sử, địa lý, tài nguyên, chủ quyền của Việt
Nam Cộng Hòa cùng những diễn tiến giữa lực lượng ta và lực lượng Trung Cộng ở
Hoàng Sa. Sau khi nghe thuyết trình, Tổng thống Thiệu đã ra những chỉ thị cho
Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và nhấn mạnh câu: “Đừng để mất một tấc đất”.
Được
tin Trung Cộng gởi thêm quân và nhiều chiến hạm từ căn cứ Hải quân Yulin ở đảo
Hải Nam (Hainan) đến Hoàng Sa, Hải quân Việt Nam Cộng hòa cũng gởi thêm 2 chiến
hạm, đó là Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ5, chiến hạm mang tên dũng tướng với
câu nói khí khái: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và
Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 tăng viện cho Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ5 là hải quân
trung tá Phạm Trọng Quỳnh, Khóa 11, còn Hạm trưởng HQ10 là hải quân thiếu tá Ngụy
Văn Thà. Khóa 12. Cùng đi trên HQ5 có hải quân đại tá Hà Văn Ngạc, Khóa 5, Chỉ
huy trưởng Hải đội 3 Tuần dương, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hạm đội, vừa được chỉ định
làm Tư lệnh đặc nhiệm Chiến dịch Hoàng Sa và đại tá Ngạc dùng HQ5 làm Soái hạm
để chỉ huy cuộc hải chiến. Sự hiện diện của Đại tá Hà Văn Ngạc, một sĩ quan cao
cấp, nhiều kinh nghiệm, đã từng tu nghiệp ở Đại học Hải chiến Hoa Kỳ làm cho mọi
người thêm vững tâm, lên tinh thần. HQ5 cũng còn chở theo 49 chiến sĩ hải kích
(người nhái). Tinh hình vô cùng khẩn cấp mà HQ10 bị hư một máy chưa sửa chữa kịp
chỉ chạy một máy thành thử vận tốc bị giảm khoảng 50%, thêm vào đó radar của
HQ10 cũng bị hư nên đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 tách đoàn, tăng vận tốc để ra
Hoàng Sa càng sớm càng tốt. Khoảng 3:00 giờ chiều ngày 18-1-1974, HQ5 ra đến
Hoàng Sa. Lúc đó lực lượng của đôi bên như sau: ta có Khu trục hạm HQ4, 2 Tuần
dương hạm HQ5 và HQ16, còn phía Trung Cộng có 2 Hộ tống hạm Kronstadts mang số
271 và 274, được coi là chủ lực của địch với 2 tàu chở quân võ trang mang số
402 và 407 cùng một tàu vận tải và một ghe buồm.
Tuần
dương hạm Trần Bình Trọng HQ.5
Vừa
nhập vùng, đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho 3 chiến hạm chuẩn bị cuộc phô diễn lực
lượng để thăm dò phản ứng địch. Đi đầu là Tuần dương hạm HQ16 rồi đến HQ5, sau
cùng là HQ4 với các khẩu hải pháo 127 ly (5 inch), 76.2 ly và các đại bác 40 ly
đơn, đại bác 40 ly đôi (2 nòng), đại bác 20 ly như sẵn sàng nhả đạn vào quân
thù trong khi 3 lá đại kỳ nền vàng 3 sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa tung bay ngạo
nghễ trên 3 cột buồm giữa gió chiều Hoàng Sa. Trong lúc các chiến hạm đang rẽ
sóng thì các dàn radars khổng lồ quay chầm chậm có nhiệm vụ phát hiện rồi cung
cấp các dữ kiện để đo khoảng cách, hướng đi và vận tốc của tàu địch. Với 3 chiến
hạm bệ vệ, bề thế lực lượng phe ta trông oai dũng và “ngầu” lắm. Đoàn tàu tiến
theo đội hình hàng dọc từ phía Nam đảo Pattern trực chỉ về hai đảo Quang Hòa và
Duy Mộng, tất cả đều 2 máy tiến 2, cách khoảng nhau 500 mét. Khi vừa chạy được
độ hai hải lý thì 2 chiến hạm chủ lực 271 và 274 của Trung Cộng đang nẳm im
trong vùng biển cũng nổ máy, tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến thẳng
về hướng đội hình tàu Việt Nam. Chiến hạm của Trung Cộng chạy rất nhanh, hai
máy tiến full để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa. Khi đến cách đoàn tàu
ta chừng một hải lý, chiếc đầu của địch bỗng quay trái, được một đoạn ngắn lại quay
ngược chiều 180 độ chạy băng ngang trước mũi HQ16. Vừa qua khỏi chúng lại lộn
ngược trở lại về phía phải để vẽ một đường ngang khác trên mặt nước. Rồi chiếc
thứ hai của chúng cũng lập lại những động tác y như chiếc đầu để cuối cùng đường
giăng ngang của chúng vẽ nên chỉ cách tàu ta khoảng 150 mét. Trước thái độ
khiêu khích của địch khiến phe ta khó xử. Dùng võ lực thì chưa có lệnh, còn tiếp
tục tiến có thể gây tai nạn đụng tàu vì tàu Trung Cộng chạy quá nhanh mà khoảng
cách lại quá gần. Cuối cùng đoàn tàu được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng
Bắc. Thế là cuộc phô diễn lực lượng coi như hoàn tất.
Đến
khoảng 10:00 giờ tối ngày 18-1-1974 chiếc HQ10 đến nhập đoàn với các chiến hạm
Việt Nam. Đêm 18 rạng ngày 19-1-1974 nhằm đêm 29 Tết Nhâm Dần cũng là đêm cực kỳ
căng thẳng. Trời tối thui như mực, các tàu Trung Cộng vẫn tiếp tục khiêu khích,
tiến đến gần đảo Hoàng Sa, trên các tàu ta còi nhiệm sở tác chiến báo động liên
hồi. Chiến hạm HQ4 phải dùng đèn hồ quang cực sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng
vào đội hình tàu địch và đánh quang hiệu yêu cầu họ ra khỏi lãnh hải Việt Nam
cho đến khi tàu Trung Cộng rút lui tình hình mới dịu hơn. Đêm đó, tất cả các
chiến hạm Việt Nam được lệnh trong tư thế Zebra, nghĩa là không để lọt ánh sáng
ra ngoài hầu tàu địch không phát hiện được vị trí.
Mặc
dù phía Trung Cộng phản ứng mạnh, lực lượng Việt Nam vẫn tiến hành kế hoạch đổ
quân tái chiếm đảo Quang Hòa như đã dự định. Lúc 6:50 giờ sáng ngày 19-1-1974,
lực lượng đổ quân được chia làm hai toán. Toán Biệt hải trên HQ4 được lệnh đổ bộ
lên mặt nam trong khi toán Hải kích (người nhái) trên HQ5 đổ bộ lên mặt tây
nam. Phần lớn sĩ quan và binh sĩ của toán Hải kích được huấn luyện ở trường
NAVY SEAL của Hoa Kỳ. Lực lượng đổ bộ gồm toàn những thành phần được huấn luyện
tinh nhuệ, thiện chiến nhất của Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Ngay khi đặt chân
lên bìa đảo, cả hai toán đều bị quân Trung Cộng đông hơn, dùng hỏa lực cực mạnh
từ các chiến hào bắn xối xả khiến lực lượng đổ bộ không thể nào tiến sâu vào
trung tâm đảo. Tình hình lúc bấy giờ thật nguy cấp và bất lợi cho lực lượng Việt
Nam nhưng vì tuân hành thượng lệnh, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ nên vào lúc 9:00
giờ sáng, toán Hải kích được lệnh vượt lên trước. Hạ sĩ người nhái Đỗ Văn Long
là chiến sĩ đầu tiên vừa nổ súng vừa xung phong vào đảo liền bị hỏa lực địch bắn
tử thương. Trung úy Lê Văn Đơn nhào lên để thu hồi tử thi của đồng đội lại cũng
bị đạn thù quật ngã. Trước quân số đông hơn và hỏa lực mạnh hơn của địch nên cả
hai toán được lệnh rút về tàu với xác của Trung úy Đơn và các chiến sĩ bị
thương khác, còn xác của Hạ sĩ Long đành bỏ lại trên đảo vì nếu cố gắng vào thu
hồi sẽ gây thêm nhiều thương vong.
Anh
chị Đơn vừa có đứa con trai lên 2 tuổi, giống anh như đúc, đặt tên là Lê Văn
Nguyên. Cha tên Đơn đặt tên con là Nguyên. Sau khi anh Đơn hy sinh, chị Đơn đã
đổi tên con thành Lê Hoàng Sa để tưởng niệm nơi cha cháu đã chiến đấu cho sự vẹn
toàn lãnh thổ và đã anh dũng nằm xuống.
Cuộc
đổ quân tái chiếm đảo thất bại vì địch đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, 2 chiến sĩ
đã đền nợ nước, một số khác bị thương, giặc đã chiếm đất, chiếm nhà của ta.
“Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy”,
cho nên Hải quân đại tá Hà Văn Ngạc ra chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn
công, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Các chiến hạm đều ở trong tình trạng
chiến đấu toàn diện, còi nhiệm sở tác chiến rú lên dồn dập, liên hồi như thúc
giục bước chân của các chàng lính thủy chạy nhanh hơn vào các nhiệm sở chiến đấu.
Tất cả thủy thủ đoàn với áo giáp, phao nổi, nón sắt ngồi trong các ụ hải pháo
chờ lệnh khai hỏa, sẵn sàng tác xạ tiêu diệt địch. Sau khi các đài chiến báo
(CIC) từ các chiến hạm báo cáo “sẵn sàng” thì từ soái hạm HQ5, hải quân Đại tá
Hà Văn Ngạc, Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Sa ban hành lệnh “khai hỏa” hồi 10 giờ 24
phút sáng ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bắt đầu.
Trong
khi tấn công, các chiến hạm Việt Nam theo đội hình tác chiến vòng cung, xông thẳng
vào tàu địch, một đối một, tác xạ đồng loạt. Máy tàu rú lên tăng vận tốc, chân
vịt gầm gừ ra sức đẩy con tàu nhanh thêm, mũi tàu xé nước trùng dương lướt tới,
các chiến sĩ ta mắt sáng quắc đang nhả đạn vào đoàn tàu xâm lăng như mưa. Sóng
Hoàng Sa làm sống lại tiếng sóng Vân Đồn, khí thế Bạch Đằng Giang đang sôi sùng
sục trong huyết quản các chiến sĩ Hoàng Sa...“Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng
dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống oai hùng Nam-Bắc-Trung...”(Hải
quân hành khúc). Khói lửa bốc lên mịt mù, không khí khét lẹt mùi thuốc súng
trong buổi bình minh trên Biển Đông. Tiếng đạn hải pháo xé gió rít lên những âm
thanh nghe rợn người, đạn rơi lủm chủm trên mặt biển, đạn nổ quanh tàu bắn tung
những cột nước lên cao, thân tàu run lên bần bật vì trúng đạn. Một chiến sĩ ta
bị trúng đạn địch ngã xuống thì chiến sĩ khác phóng lên ôm súng nhả đạn vào tàu
địch xâm lăng, hai chiến sĩ ta ngã xuống thì có hai chiến sĩ khác nhào lên tiếp
tục ghì súng chiến đấu chống giữ Hoàng Sa ngàn đời máu thịt của Việt Nam ta.
Hồn
thiêng sông núi như đang cất những tiếng cười ngạo nghễ giữa tiếng súng nổ đạn
bay vì Tổ Quốc Việt Nam đã có những người con hào hùng như các chiến sĩ Hoàng
Sa:
Cuối
hàng thế kỷ thứ hai mươi,
Chống
giữ Hoàng Sa cũng lắm người!
(Thơ
của Ngọc Giao Nguyễn Đình Nhạc)
Trận
hải chiến tiếp diễn khốc liệt, với chiến thuật “tốc chiến, tốc thắng”, các chiến
hạm Việt Nam chiếm được thế thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các
tàu địch bị thiệt hai nhiều trong những phút đầu của cuộc giao tranh, chiếc Hộ
tống hạm Kronstadt 271 của địch bị trúng hải pháo 76.2 ly và 40 ly của HQ4 nên
không còn khả năng tác chiến sau đó phát nổ và chìm. Hạm trưởng chiếc nầy là đại
tá Vương Kỳ Uy bị tử thương với một số thủy thủ đoàn. Nhưng cũng như những chiến
hạm khác của ta, HQ4 cũng là mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng
nhiều vết đạn. Một trái hải pháo địch thổi bay hệ thống hút khổng lồ của HQ4.
Trong lúc hỗn chiến, bộ phận quan sát bằng ống nhòm trên nóc đài chỉ huy của
HQ4 báo cáo có hai tàu địch đang đuổi theo. HQ4 liền tăng vận tốc tối đa và vận
hành theo đội hình tác chiến zig zag, uốn lượn như con rắn nên tránh được các
quả hải pháo của 2 tàu địch đang đuổi theo. Ngay lúc đó, chiếc HQ5 cũng vừa trờ
tới, cắt ngang đuôi HQ4, phóng vào 2 tàu địch đang đuổi theo HQ4. Những khối cầu
lửa từ khẩu 127 ly trước mũi HQ5 bay thẳng về hướng 2 tàu Trung Cộng, một chiếc
của địch bị trúng đạn bốc cháy, khói lên ngùn ngụt, chiếc còn lại quay ngang bỏ
chạy mất dạng. Chiếc HQ4 bị thiệt hại nhẹ so với các tàu khác, máy móc chính, hệ
thống điện, hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt và con tàu
vẫn còn khả năng tác chiến. Về nhân mạng, HQ4 có hai chiến sĩ là hải quân thiếu
úy Nguyễn Phúc Xá và hạ sĩ nhất vận chuyển Nguyễn Thành Danh hy sinh cùng một số
đoàn viên khác bị thương. Anh Danh bị trúng đạn nơi ngực thoi thóp trên băng
ca, ngực đầy bông băng nhuộm máu, thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy rờ lên trán thấy
nóng hối và hỏi Anh có khỏe không, Anh mở mắt gật đầu nhưng sau đó lịm dần rồi
vĩnh viễn ra đi.
Trục
lôi hạm T-389 của HQTC bị Hải quân VNCH bắn chìm tại Hoàng Sa
Chiến
hạm của Trung Cộng bị trúng đạn của HQ5 bốc cháy nói trên là chiếc Hộ tống hạm
Kronstadt 274. Sau khi bị trúng đạn, chiếc nầy phải ủi vào bãi san hô để tránh
bị chìm nhưng sau đó cũng bị phá hủy hoàn toàn. Chiếc nầy cũng là soái hạm của
địch do Đô đốc Phương Quang Kính làm Tư Lệnh, chỉ huy cuộc hải chiến. Đô đốc
Phương Quang Kính còn là Tư lệnh phó Hải đội Nam Hải của Trung Cộng. Ngoài Hạm
trưởng là đại tá Quang Đức tử thương, toàn bộ tham mưu của soái hạm địch gồm Đô
đốc Phương Quang Kính, 2 Đề đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá và 7 sĩ quan
cấp úy đều tử thương. Về phần HQ5 cũng bị trúng đạn nhiều nơi, con tàu đầy vết đạn
của địch. Các ổ hải pháo 127 ly và 40 ly đôi trước mũi bị trúng đạn nên trở ngại
tác xạ, chỉ còn khẩu 40 ly bên tả hạm và 2 khẩu 20 ly là còn sử dụng được.
Chính khẩu 40 ly nầy do thượng sĩ trọng pháo Tài làm trưởng khẩu đã khạc đạn tới
tấp không cho tàu địch xáp lại gần. Lửa bốc cháy và nước tràn vào nhiều nơi, Hạm
trưởng phải ra lệnh làm ngập nước hầm đạn 127 ly để tránh đạn phát nổ vì lửa
cháy và điện chạm. Tuy bị hư hại khá trầm trọng nhưng HQ5 không có nguy cơ bị
chìm và sau đó cơ khí trưởng là thiếu tá Trần Đắc Nguyên, một sĩ quan cơ khí
nhiều kinh nghiệm đã điều động nhân viên ra sức dập tắt các đám cháy và hàn bít
các lỗ thủng nước đang tràn vào, sửa chữa các máy móc bị hư hỏng nên một thời
gian ngắn sau đó con tàu đã trở lại tình trạng hoạt động gần như bình thường. Về
nhân mạng, HQ5 có 1 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan hy sinh, 3 sĩ quan cùng 4 hạ sĩ
quan và 9 đoàn viên bị thương nặng nhẹ.
Về
phần HQ16, sau khi dùng các khẩu 127 ly và 40 ly bắn hư hại chiếc Trục lôi hạm
389 của Trung Cộng khiến Hạm trưởng là trung tá Triệu Quát bị tử thương, Tuần
dương hạm HQ 16 cũng bị trúng nhiều hải pháo hư hải nặng. Hầm đạn 127 ly trước
mũi bị thủng một lỗ lớn, nước tràn vào mỗi khi mũi tàu chúc xuống nên phải cô lập.
Máy điện cũng bị trúng đạn, dây điện bị đứt nhiều nơi, hầm máy chỗ nào cũng bị
chạm điện khiến những nhân viên có phận sự ở khu vực nầy bị điện giật nên phải
di tản. Nguy hơn nữa là hông tàu ngay hầm máy tả bị đạn hải pháo địch bắn trúng
phá một lỗ lớn ngang tầm nước làm nước biển tràn vào như thác lũ, chiến hạm mỗi
lúc nghiêng thêm về bên trái và có nguy cơ bị chìm. Sau cùng, nhờ sĩ quan cơ
khí trưởng là đại úy Hiệp đôn đốc nhân viên ra sức cô lập hầm máy tả nên chiến
hạm vẫn tiếp tục vận chuyển được bằng máy bên hữu. HQ16 chì có một chiến sĩ hy
sinh, đó là trung sĩ điện khí Xuân bị đứt lìa cánh tay phải ở hầm máy vì không
cầm máu được nên Anh đã đền nợ nước. Trung úy Bính đã vuốt mắt và cùng các y tá
cầu nguyện cho anh bằng Thánh kinh dù không rõ anh thuộc tôn giáo nào.
Hộ
tống hạm Nhật Tảo HQ.10
Còn
Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 là chiến hạm nhỏ nhất, hỏa lực yếu nhất trong số các
chiến hạm Việt Nam tham chiến, ngoài ra tình trạng kỹ thuật cũng không khả quan
cho lắm vì hư một máy, vận chuyển, xoay trở chậm chạp nên bị trúng nhiều đạn. Một
trái hải pháo 100 ly của địch bắn trúng đài chỉ huy, đốn ngã tất cả các nhân
viên có phận sự tại đây. Hạm trưởng Hải quân thiếu tá Ngụy Văn Thà và Hạm phó Hải
quân đại úy Nguyễn Thành Trí đều bị thương nặng. Kế tiếp, một trái hải pháo
khác trúng ngay hầm máy làm cho chiến hạm tê liệt, hoàn toàn bất khiển dụng,
trôi lờ đờ, lềnh bềnh trên mặt biển làm muc tiêu cho tàu địch tác xạ xối xả. Số
thương vong của HQ10 rất nặng và nhiều chiến sĩ chết một cách thê thảm như
trung úy Vũ Văn Bang, sĩ quan đệ tam chết thân xác không toàn vẹn tại Trung tâm
chiến báo (CIC); trung úy cơ khí Ngô Chí Thành chết ở phòng máy bị cháy nám đen
và hai chân hầu như lìa khỏi thân người; trung úy Nguyễn Văn Đông chết mất mặt
tại khẩu 76.2 ly ở sân trước;
hạ
sĩ vận chuyển Lê Văn Tây, người Ban Mê Thuột nhưng yêu màu áo trắng, yêu mộng hải
hồ nên sau khi lấy bằng trung học đệ nhất cấp gia nhập Hải quân và đền nợ nước
bằng cách ghì khẩu súng cho đến giờ phút chót; thủy thủ cơ khí Đinh Hoàng Mai
ôm khẩu 20 ly bắn che cho các đồng đội trên bè đào thoát, bạn bè gọi xuống bè
ra đi nhưng không chịu xuống, ở lại chết theo con tàu..., và còn nhiều chiến sĩ
khác đã liệt oanh nằm xuống mà ở đây không đủ giấy mực để kể cho hết. Những người
còn sống sót dìu dắt các chiến hũu bị thương lên 5 chiếc phao tập thể, tất cả
là 28 người, kể cả Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Riêng Hạm trưởng Ngụy Văn Thà từ
chối ra đi mặc dù các chiến hữu yêu cầu nhiều lần. Anh ở lại chết theo con tàu
đúng với truyền thống cao đẹp của Hải quân và Hàng hải. Trên đường đào thoát,
có 8 chiến sỉ, trong đó có Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị chết vì các vết thương,
vì đói khát, vì kiệt sức trước khi được chiếc tàu dầu Hòa Lan Skopionella cứu vớt
vào đêm 22-1-1974. Khi các chiến sĩ ta được vớt lên, chính tay nhị vị phu nhân
của Thuyền trưởng và Thuyền phó tàu nầy đã tận tình băng bó, săn sóc các vết
thương, đút từng muỗng cháo cho các chiến sĩ Việt Nam thể hiện tình người bao
la. Thật là một nghĩa cử đẹp không bao giờ quên được!
Trong
trận chiến, HQ10 đã mượn đáy biển Hoàng Sa làm mồ dũng sĩ, mang theo 42 người
con yêu của Tổ Quốc, kể cả Hạm trưởng Hải quân thiếu tá Ngụy Văn Thà, Khóa 12,
sinh ngày 16-1-1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Anh lập gia đình với chị Huỳnh Thị
Sinh, chị Sinh còn rất trẻ, chưa tới tuổi 30. Hai anh chị có được 2 người con
gái, còn rất nhỏ, cháu đầu 4 tuổi, cháu sau 2 tuổi. Cùng chết theo tàu có trung
úy Vũ Văn Bang, ngày tàu rời Sài Gòn đi công tác, Anh Bang có đem theo tấm hình
của đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng để khoe với bạn bè. Khi chết, tấm hình
của cháu vẫn còn nằm trong túi áo trận trên ngực anh, được bọc bằng giấy nylon
cho không bị ướt:
Sóng
biển chiều nay cuồn cuộn quá,
Còn
đây uy dũng pháo Hoàng Sa.
Vành
khăn tang trắng đầu con trẻ,
Kinh
buồn vĩnh biệt tiếng cười cha!
(Thơ
Nguyệt Trinh)
Tử sĩ Hoàng Sa
Còn
trung sĩ giám lộ Vương Thương, cũng thuộc HQ10 đã chết trên bè đào thoát. Anh bị
mảnh đạn chém đứt mông trái và vĩnh viễn nằm xuống vì máu ra quá nhiều. Anh đã
hy sinh cho đất nước trước ngày làm lễ cưới. Lẽ ra anh đã được đi phép cưới vợ,
giấy phép đã cầm trong tay nhưng Hạm trưởng động viên anh ở lại đi công tác
chuyến nầy vì anh quá rành quần đảo Hoàng Sa. Ngày tàu nhổ neo rời bến, người vợ
sắp cưới ra tận cầu tàu tiễn chân anh, nàng âu yếm nắm chặt tay người yêu như
trao tất cả tình thương và hẹn ngày anh về hai người sẽ làm đám cưới trọn đời
yêu nhau cho vẹn lời nguyền trăm năm kết tóc xe duyên... nhưng:
Lần
tiễn đưa hôm ấy một lần thôi,
Là
chiến sĩ một đi không trở lại!
(Giòng
lệ cuối – Phạm Từ Quyên)
Tổ Quốc - Đại
Dương
Riêng
toán đổ bộ lên đảo Cam Tuyền của HQ16, khi trận hải chiến xảy ra, HQ16 không thể
vớt họ được vì đang chiến đấu với tàu địch, nếu tàu ngừng lại để vớt họ thì con
tàu sẽ là mục tiêu bất động cho tàu địch vì thế Hạm trưởng Lê Văn Thự liên lạc
bằng máy truyền tin với trung úy Liêm, sau khi thông báo tình hình bất khả
kháng của chiến hạm, ông đã động viên anh em dùng bè đào thoát, cố vượt ra khỏi
vùng giao tranh, đồng thời yêu cầu mọi người thông cảm sự bất lực của ông trước
tình hình hiện tại vì ông đang mang trách nhiệm về sự an toàn của con tàu và
sinh mạng của hàng trăm thủy thủ đoàn. Càng nói, trông ông càng đau đớn, đôi mắt
đỏ hoe như ông đang muốn khóc vì không vớt được các chiến hữu và đồng đội của
ông!
Sau
đó, toán đổ bộ nầy dùng bè cao su vượt thoát ngay tức khắc trong lúc cuộc hải
chiến đang xảy ra.. Khi họ đang lênh đênh trên những xuồng đào thoát, một chiến
hạm địch bị trúng đạn của phe ta, cả toán 15 chiến sĩ nầy biểu lộ tinh thần yêu
nước cao độ bằng cách tất cả cùng giơ cao những cánh tay và đồng ca bản “Việt
Nam – Việt Nam” (Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời... Việt Nam nước tôi...) Và
sau 10 ngày chống chọi với sóng gió, đói khát các chiến sĩ ta được ngư dân ở
Qui Nhơn cứu sống. Chỉ có một chiến sỉ hy sinh sau khi đã lên thuyền ngư dân,
đó là hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên. Anh Duyên đã ra đi vì đói, khát và kiệt
sức. Khi được ngư dân vớt lên thuyền, họ như những người về từ cõi chết, xơ
xác, ốm yếu, tiều tụy, mắt lõm sâu như những hố thẳm, râu tóc xồm xoàm, rậm rạp
trông họ như những người rừng. Nhưng tận đáy lòng Mẹ Việt Nam họ là những người
con kiêu hùng của Mẹ về từ Tổ Quốc đại dương.
Sau
trận hải chiến, khoảng 7:00 giờ sáng ngày 20-1-1974 đoàn chiến hạm ta về đến bến
thương cảng Đà Nẵng nhưng đoàn tàu vắng bóng HQ10. Trên bến, đồng bào đứng đông
nghẹt, chen chút nhau tiếp đón các chiến sĩ Hoàng Sa bằng một rừng biểu ngữ với
các khẩu hiệu: “Hải Quân Việt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối
cùng”, “Một ý chí: chống cộng - Một lời thề: bảo vệ quê hương”, “Hoan hô tinh
thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân tham dự Hải chiến Hoàng Sa”,
“Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hải chiến Hoàng Sa”.
Tiếp đón các chiến sĩ
Hoàng Sa
Chiến
sĩ Hoàng Sa, các anh rất xứng đáng được vinh danh là những người con yêu của đất
nước! Các anh đã không phụ lòng những bà mẹ hiền đã âu yếm trao các anh cho đất
nước khi các anh vừa khôn lớn. Các anh cũng không phụ lòng mái quân trường đã
đào tạo các anh thành những người trai thời chiến. Các anh cũng không phụ lòng
đồng đội, chiến hữu khi các anh xông pha trong các chiến trường lửa đạn. Và các
anh cũng không phụ lòng đồng bào đã trao trọn niềm tin nơi các anh. Lính nào
cũng là lính, lính nào cũng đóng góp xương máu cho quê hương đất nước và các
anh cũng vậy, các anh đã đại diện màu áo để góp máu cho Tổ Quốc.
Trận
Hải chiến Hoàng Sa đã nói lên hùng tính Việt tộc, đồng thời nối tiếp tinh thần
chống Bắc xâm của dân tộc ta. “Hải chiến Hoàng Sa” là một bản hùng ca phụ vào với
“Bình Long anh dũng” - “Kontum kiêu hùng” - “Trị Thiên vùng dậy” để tô đậm thêm
những nét son cho Pho hùng sử của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Lê
Thương
Richmond
– Virginia
No comments:
Post a Comment