Uwe Siemon-Netto
Trà
Mi lược dịch
Posted
on January 6, 2015 by editor
— No Comments ↓
Tôi
tin rằng tất cả chúng ta có nhiệm vụ phải làm chứng nhân cho lịch sử… Vì lợi
ích của những thế hệ đi sau, chúng ta phải giữ cho ký ức của sự thật lịch sử sống
mãi.
Tôi
hãnh diện đã được yêu cầu nói chuyện với các bạn hôm nay, gần nửa thế kỷ sau lần
đầu tiên tôi đến Việt Nam như một phóng viên chiến trường Tây Đức. Lúc đó các lực
lượng chiến đấu Mỹ đầu tiên chưa đổ bộ vào Đà Nẵng. Đó cũng là lúc tôi bắt đầu
biết yêu nồng nàn con người và đất nước của các bạn, những người đã nể trọng và
gọi dân tộc chúng tôi là “Đức”, cũng có nghĩa là đạo đức.
Một
ngày nọ, một chú nhỏ trong đám trẻ bán báo không nhà sống trên đường Tự Do ở
Sài Gòn, đến gần tôi và nói:
“Ông là Đức, tôi tên
là Đức, vì vậy cả hai chúng ta là Đức, và tôi có một đề nghị với ông. Nếu ông
cho phép bạn bè của tôi và tôi ngủ trong xe của ông, chúng tôi sẽ canh giữ và
lau chùi nó sạch sẽ cho ông.”
Tôi
đã thuê bán thường xuyên một chiếc Citroen 15 mã lực, [còn gọi là] một chiếc trắc
xông [traction]. Đây là một chiếc xe rất lớn và rất tốn xăng của Pháp chế tạo
vào năm tôi ra đời. Ổ khóa cửa của nó đã mất. Vì vậy, có ai đó coi chừng giùm
cũng là điều tốt. Đôi khi có bảy hay tám đứa trẻ ngủ trong chiếc xe này, giữ
gìn nó thật sạch từ bên trong đến bên ngoài.
Givral trên đường Tự
Do ở Saigon (Circa 1960). Nguồn TIME Magazine
Tôi
luôn luôn đậu trên đường Tự Do đối diện với Continental Palace, bên cạnh quán
Café Givral, nếu bạn còn nhớ. Nó, chiếc xe, không chỉ là phương tiện đi lại của
tôi; quan trọng hơn, nó đã trở thành một phương tiện hữu nghị giữa Đức, các nhà
báo, và một đám trẻ tuyệt vời, do Đức dẫn đầu, đi bán dạo các tờ báo như Nhật
báo Sài Gòn, Saigon Post và nhiều tờ báo khác.
Tình
bạn này kéo dài cho đến khi chiếc traction của tôi trở thành một nạn nhân trong
cuộc tấn công Tết năm Mậu Thân 1968 và những đứa trẻ bụi đời đã biến mất khỏi
đường Tự Do một thời gian.
Tôi
tự hỏi chuyện gì đã xảy ra cho Đức kể từ ngày đó. Có thể anh ấy hiện đang sống
tại Hoa Kỳ, có lẽ anh ấy đang ngồi ngay trong phòng này. Sẽ thật là kỳ diệu nếu
tôi được nói chuyện và cười với anh ta một lần nữa; anh ấy đã là một đứa trẻ
tuyệt vời.
Không
phải là tôi đã ở Sài Gòn nhiều; tôi thường tháp tùng các đoàn quân của các bạn
ra mặt trận. Và ở đó tôi quan sát thấy các bác sĩ QLVNCH và nhân viên y tế đã
dũng cảm cố gắng cứu sống nhiều thương binh. Có lẽ một số bạn ở đây và tôi đã gặp
nhau – gần Quảng Trị, Huế, Pleiku hay Pleime, Nha Trang, hay ở đồng bằng sông Cửu
Long, hoặc tại các trại tù binh trên đảo Phú Quốc.
Lúc
ấy là vào đầu năm 1965.
Cuối
năm đó tôi bị chấn cột sống khi đi theo một chiếc trực thăng tải thương của Mỹ
và chúng tôi bị bắn rơi ở phía tây An Khê, và vì vậy các bác sĩ người Mỹ đã
chăm sóc cho tôi. Nhưng dẹp qua cái quốc tịch của bác sĩ và nhân viên quân y:
Trong năm năm tôi ở Việt Nam, tôi rất trân trọng sự hy sinh, lòng dũng cảm và
tính chuyên nghiệp của tất cả các bạn, những người Mỹ, người Việt Nam, người Đại
Hàn và người Úc.
Vì
vậy, các bạn và tôi có thể đã gặp nhau. Thật khó mà không thấy khi tôi đến thăm
đơn vị của các bạn, ở trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, tôi là phóng viên Tây
Đức duy nhất tại Nam Việt Nam, và huy hiệu của tôi xác định tôi là một người Đức.
Trong
một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi thậm chí đã trở thành đồng đội của các bạn vì
tôi đã bắt một cán binh Việt Cộng.
Đây
là một sự kiện khá thú vị. Và đây là những gì đã xảy ra.
Vào
tháng Hai năm 1965 tôi đi theo một toán A-Team của Lực lượng Đặc biệt Mỹ và
tham gia vào cuộc tập nhảy dù phía tây của Mỹ Tho. Tôi rơi xuống đất. Tôi cuộn
dù và nhận thấy đất lún dưới chân tôi. Tôi lùi lại. Mặt đất lại trồi lên lại.
Tôi nhảy, với cả hai chân, mạnh xuống chỗ đó. Mặt đất lõm xuống. Tôi nghe thấy
có tiếng rên. Một lần nữa tôi lùi lại, dỡ bỏ lớp cỏ và thấy chiếc nón cối ngụy
trang của một cán binh VC và nòng khẩu súng trường loại cũ M-1 của hắn.
Trước
hết tôi lấy khẩu súng, rồi nâng anh VC ra khỏi hố. Hắn là một anh chàng nhỏ bé
gầy guộc trong bộ bà ba đen, và anh ta đang run rẩy. Tôi nói với hắn: “Hãy
can đảm, đồng chí, với anh thì cuộc chiến đã chấm dứt.” [“Courage,
camarade, pour toi la guerre est fini.”] Tôi không biết anh ta có nói tiếng
Pháp hay không, nhưng chắc chắn hắn hiểu những gì tôi nói: “Hãy can đảm, anh bạn,
với bạn chiến tranh đã chấm dứt.” Bấy giờ hắn mới mỉm cười.
Tôi
giao anh VC và khẩu súng trường lại cho toán lính Mỹ nhưng vẫn giữ cái nón cối
của hắn làm chiến tích. Suốt 46 năm sau đó nó nằm trong thư viện của tôi đến
khi vợ chồng bạn tôi anh Dr. Lý Văn Quý và chị Châu đến nhà tôi ở Pháp hồi cuối
tháng Mười. Tôi đã tặng cái nón cối VC lại cho họ như một món quà lưu niệm.
Không phải vì tôi đã thực hiện một hành động anh hùng vĩ đại.
Tuy
nhiên, tôi đã vui vẻ để giúp bạn. Vì vậy, đây – cái nón cối. Đây là chiến tích
của tôi. Bây giờ nó là của hai bạn. Nó sẽ vào bảo tàng chiến tranh của bạn ở
đây, tại Little Saigon.
Ba người bạn trước tòa
soạn Viet Báo ở California (Từ phải): Tác giả Uwe Siemon-Netto và vợ chồng Dr.
Lý Văn Quý. Nguồn: vietbao.com / Tháng 4, 2013
Đó
là một sự kiện lành mà tôi nâng niu làm kỷ niệm. Một vài tuần sau đó, tôi có một
kinh nghiệm đau buồn ở phía tây thành phố Nha Trang. Nhưng nó có nghĩa để tôi
hiểu được nhiệm vụ của mình. Vì nó đã cho tôi thấy bộ mặt thật của chiến tranh
Việt Nam. Lý do tại sao bây giờ tôi nói đến sự kiện này vì nó cho thấy nguyên cớ
tại sao rất nhiều người Mỹ chưa bao giờ hiểu rõ về cuộc xung đột ở Việt Nam.
Tổng
thống Richard M. Nixon sau đó đã trích dẫn bài báo của tôi về vụ này trong cuốn
sách của ông, The Real War. Vì vậy, xin thứ lỗi cho sự phù phiếm của tôi nếu
tôi trích dẫn một Tổng thống Hoa Kỳ đã trích dẫn tôi: Nixon đã viết,
“… nhà báo Đức Uwe
Siemon-Netto đã vẽ nên một minh họa sinh động về cách các toán du kích cộng sản
sử dụng khủng bố để đạt mục đích của họ. Siemon-Netto, người đi cùng một tiểu
đoàn của Việt Nam đến một ngôi làng lớn mà Việt Cộng đã đột kích năm 1965, đưa
tin: ‘lủng lẳng trên cây và trên nhiều cột trong sân làng là ông xã trưởng, vợ
ông, và mười hai người con của họ, những cậu con trai, kể cả một em bé …”
Bọn
Việt Cộng đã ra lệnh cho tất cả mọi người trong làng phải chứng kiến cảnh gia
đình này bị tra tấn trước, và sau đó bị treo cổ.
“Họ bắt đầu bằng em
bé và sau đó từ từ tra tấn đến các em lớn hơn, rồi tới người vợ, và cuối cùng đến
ông xã trưởng. … Họ ta tay rất lạnh lùng, giống như một hành động trong chiến
tranh, như bắn súng phòng không …”
Thường dân Việt nam bị
thương nằm trên các đường phố sau khi VC cho nổ một quả bom bên ngoài Đại sứ
quán Mỹ ở Sài Gòn, Việt Nam, ngày 30 tháng 3, 1965. Ít nhất hai người Mỹ và một
số người Việt thiệt mạng trong vụ đánh bom. Ảnh AP / Horst Faas
Tất
cả trích dẫn phía trên là trích đoạn của Nixon từ một câu chuyện của tôi. Nixon
giải thích rằng đây là cách người Cộng sản giành được trái tim và khối óc của
người dân nông thôn. Họ đã không giành được con tim và tâm trí [người dân] bằng
những tình thương nhưng bằng những hình thức tàn nhẫn và đe dọa nhất. Dân làng
nói với tôi rằng cán bộ Việt Cộng đã vào làng nhiều lần trước và cảnh cáo ông
xã trưởng rằng nếu không ngừng hợp tác với chính phủ Việt Nam [Cộng hòa] thì
ông sẽ nhận lãnh những hậu quả nghiêm trọng.
Nhưng
ông vẫn trung thành, do đó, vào giữa đêm họ quay lại và đánh thức tất cả mọi
người trong làng để chứng kiến vụ thảm sát, đồng thời một cán bộ tuyên truyền
đã nói với mọi người: “Đây là những gì sẽ xảy ra với quý vị nếu không theo
chúng tôi; nhớ đó!”
Tôi
xấu hổ nhìn nhận rằng tôi không còn nhớ tên của ngôi làng đó. Nhưng điều đó
không thực sự quan trọng vì những việc này hồi đó đã xẩy ra trên khắp miền Nam
Việt Nam mỗi đêm.
Tuy
nhiên, công chúng Mỹ phần lớn không biết đến những sự kiện này vì giới truyền
thông của họ đã không nói cho họ biết. Trong những cuộc họp báo hàng ngày ở Sài
Gòn – cuộc họp khét tiếng lúc 5 giờ – chỉ thuần là những phiên họp để đưa số thống
kê. Người tóm tắt thông tin thường xuyên báo cho phóng viên con số lớn các “sự
kiện” xảy ra trong 24 giờ trước đó.
Bản
tường trình nghe như một bản báo cáo bán hàng: “Quân Đoàn I, 184 lần chạm địch;
Quân đoàn II, 360 lần; Quân đoàn III, 225; Quân Đoàn IV, 480.” Tất cả chỉ có thế.
Không có thêm chi tiết nào khác. Vì gần như không thể có được do số lượng quá
nhiều của những cuộc đụng độ trong vòng 24 giờ.
Ký
giả chúng tôi đã không thể nghiên cứu những sự kiện này trừ khi chúng tôi có mặt
ở đó như trường hợp của tôi khi đi cùng với một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 22 quân
lực VNCH. Tuy nhiên, những gì tôi thấy gần Nha Trang đã thực sự vô cùng quan trọng
vì nó tiêu biểu cho bản chất của giai đoạn đặc biệt này của cuộc chiến Việt
Nam.
Hành
vi khủng bố để đe dọa dân chúng là đặc trưng của giai đoạn thứ hai trong chiến
lược chiến tranh du kích của Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng quốc phòng của Bắc
Việt Nam.
Tôi
thật sự nghi ngờ rằng nhiều người Mỹ có thể quay lưng lại với cuộc chiến tranh
Việt Nam, nếu giới truyền thông của họ liên tục miêu tả những hành động vô nhân
đạo đã xảy ra ở khắp mọi nơi ở miền Nam Việt Nam. Họ đã không làm, một phần vì
các nhà báo không có phương tiện để làm như vậy, một phần cũng vì nhiều phóng
viên và biên tập viên của họ đã có chương trình khác. Tôi nói “nhiều” chứ không
phải “tất cả”.
Ba
năm sau, Tết Mậu Thân ở Huế, tôi đang đứng cùng đồng nghiệp Peter Braestrup của
Washington Post ở vành của một ngôi mộ tập thể và đã vô tình nghe Peter hỏi một
người quay phim cho một đài truyền hình Mỹ: “Tại
sao bạn không quay cảnh này?” Người quay phim trả lời: “Chúng tôi không đến đây để tuyên truyền chống Cộng.” Điều này
cho thấy một tư duy đáng xấu hổ của nhiều đồng nghiệp của tôi; tôi tin cách suy
nghĩ đó là yếu tố quan trọng đã tạo thành ước vọng chấm dứt chiến tranh với bất
cứ giá nào [của công chúng Mỹ].
Tướng
Giáp biết điều này sẽ xảy ra. Ông biết rằng các cử tri Mỹ sẽ mệt mỏi với cuộc
chiến này. Vì ông biết rất rõ những điểm yếu của một xã hội tự do, đặc biệt là
khả năng chú ý ngắn của nó. Sáu mươi năm trước, ông đã viết: “Kẻ thù” – thực tế
là tất cả các nền dân chủ phương Tây – “không có vũ khí tâm lý và chính trị để
chống lại một cuộc chiến kéo lâu dài.”
Ông
tiên đoán sự mệt mỏi chiến tranh, phong trào hòa bình, khuynh hướng đạo đức giả
của ý thức hệ đã bỏ qua bản chất ghê tởm của một phong trào cách mạng độc tài;
sự thiên vị để nhấn mạnh đến những thiếu sót của phe mình; xã hội dân chủ đang
hy sinh lớp thanh niên, tuổi trẻ của họ cho “đồng minh” bị cáo buộc là tham
nhũng; và cuối cùng mong muốn “tìm một lối thoát danh dự,” và “hòa bình trong
danh dự,” rồi đi đến một thỏa hiệp công bằng.
Điểm
rất đáng chú ý về vai trò của giới truyền thông tại Việt Nam là có một số phóng
viên người Mỹ, những người sau này trở thành những nhân vật phản chiến hăng
hái, đã biết rất rõ về sự nguy hiểm này. Ngày 13 Tháng Giêng 1965, Một
columnist cũng là sử gia Mỹ nổi tiếng Stanley Karnow trích dẫn tuyên bố của tướng
Giáp về sự bất lực của các quốc gia tự do để chống lại cuộc chiến tranh kéo dài
và cảnh cáo người đọc về những hậu quả của nhược điểm này trong cấu tạo của bất
kỳ hệ thống dân chủ nào.
Và
chẳng bao lâu sau, Karnow đứng đầu giới cầm bút kích động cho cái gọi là “hòa
bình trong danh dự,” và biết quá rõ rằng một cuộc hòa giải thật sự là danh dự
thực sự không thể có được.
Hôm
nay chúng ta nghe tiếng vọng của việc này về vấn đề ở Afghanistan. Một lần nữa
chúng ta lại nghe những lời kêu gọi cho một cuộc thương thuyết hòa giải. Chúng
ta nghe đến những cuộc đàm phán bí mật giữa Mỹ và Taliban. Không ai nghĩ đến việc
phong trào độc tài toàn trị này có thể nhượng bộ những gì khi thương thuyết.
Thỏa
hiệp loại đó có thể có những điểm: Thay vì bị cấm không được học đọc và viết,
phụ nữ sẽ được phép học nửa bảng chữ cái? Trong năm năm đầu sau khi Taliban tiếp
quản chỉ có một nửa số phụ nữ bị cáo buộc là ngoại tình sẽ bị ném đá đến chết
thôi giống như chế độ đã sử dụng trước khi Taliban bị mất quyền lực? Và phụ nữ
sẽ chỉ bị quất một nửa số roi nếu mặc áo trùm mà để hở mắt cá chân?
Một
chục năm trước đây, một nhóm nữ quyền hàng đầu của Mỹ, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia,
công bố những vi phạm nhân quyền khủng khiếp của Taliban đối với phụ nữ trên
trang web của họ. Hôm nay không cần mất thời giờ suy nghĩ, có khả năng rất cao
là những vi phạm này sẽ được lặp lại một khi NATO rút lực lượng [ra khỏi
Afghanistan] vì những lạm dụng đó là một phần trong ý thức hệ Hồi giáo cực đoan
cũng như những trại cải tạo lao động [tù khổ sai] trong ý thức hệ cộng sản. Những
ai trong các bạn ở đây đã có kinh nghiệm với trại tù Việt Cộng hẳn biết những
gì tôi đang nói.
Tôi
tin rằng tất cả chúng ta có nhiệm vụ phải làm chứng nhân cho lịch sử – các bạn,
các cựu chiến binh của cuộc chiến này, và chúng tôi, những ký giả đã đưa tin về
nó. Vì lợi ích của những thế hệ đi sau, chúng ta phải giữ cho ký ức của sự thật
lịch sử sống mãi. Chúng ta phải tiếp tục nhắc nhở giới truyền thông ở nước sở tại
của chúng ta về vai trò then chốt của họ trong việc bảo vệ tự do. Chúng ta phải
cảnh báo những người đi sau chúng ta về những hậu quả khủng khiếp của một nền
báo chí xấu, hàn lâm đạo đức giả và một khối cử tri chán nản không kiên quyết.
Các bạn đang ở vị trí tốt nhất để làm điều này. Các bạn đã thấy và đã phải gánh
chịu rất nhiều.
Hãy
cho tôi nói thêm một điều: Tôi là một Kitô hữu, và một người viết sử nghiệp dư.
Là một Kitô hữu tôi biết ai là Chủ tể sau cùng của lịch sử. Và là một người viết
sử nghiệp dư tôi biết rằng lịch sử luôn luôn mở cửa cho tương lai. Gộp hai yếu
tố này lại với nhau cho chúng ta niềm hy vọng – hy vọng cho Việt Nam, hy vọng
cho Afghanistan, hy vọng cho nhân loại. Chúng ta không phải là những chủ nhân của
tương lai. Nhưng chúng ta có tiếng gọi của lương tâm để giúp làm cho tương lai
được tốt đẹp hơn.
Do
đó, chúng ta đã không nhìn thấy những điều ác một cách vô ích, và chúng ta cũng
đã không đau khổ vô cớ. Tất cả đều có lý do của chúng, và lý do đó là để chúng
ta có thể nói lại với thế hệ tương lai những gì thực sự đã xảy ra, bất kể nhiều
điều dối trá vẫn đang được nói đi nói lại về Việt Nam.
Những người sống sót
sau cuộc thảm sát ở Đồng Xoài. Ảnh của Horts Faas, 1971
Trên
đây là bài phát biểu của tác giả tại Hội nghị Quốc tế của Cựu chiến binh Quân y
Việt Nam Cộng Hòa tại thành phố Westminster, Cal., ngày 15 tháng 4 năm 2012.
Uwe
Siemon-Netto, cựu biên tập viên tôn giáo vụ của United Press International, là
một nhà báo quốc tế trong 55 năm hoạt động ở Bắc Mỹ, Việt Nam, Trung Đông và
châu Âu cho các tạp chí của Đức. Tiến sĩ [Thần học] Siemon-Netto hiện quản trị
League of Faithful Masks và Trung tâm Thần học Lutheran & Public Life do
ông sáng lập tại Capistrano Beach, Calif.
©
2015 DCVOnline
Nguồn:
A German Remembers Vietnam By Uwe Siemon-Netto , Tuesday, April
17, 2012.
No comments:
Post a Comment