10-12-2014
Đã in tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
số 7-8 (114-115).2014,
số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)
số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)
Some thoughts on the educational
differences
between the North and the South of Vietnam
between the North and the South of Vietnam
TÓM TẮT
Tác giả bài viết là một người từ nhỏ được đào tạo theo
cách giáo dục ở miền Bắc. Bài viết xuất phát từ những cảm nhận của tác giả trên
đường tự nhận thức về nền giáo dục mình đã trải qua, khi lấy giáo dục miền Nam
làm điểm đối chiếu, từ đó bước đầu làm rõ sự khác biệt giữa hai nền giáo dục
trong giai đoạn 1954-1975.
Hình thành trong những năm chiến tranh và để phục vụ chiến
tranh, nền giáo dục miền Bắc – trong khi tự nhận là một nền giáo dục cách mạng
– lại mang đặc điểm rõ nhất là sự phi chuẩn. Nền giáo dục này được làm một cách
duy ý chí, bỏ qua khá nhiều những yêu cầu của mọi nền giáo dục từ xưa tới nay
phải theo. Tính phi chuẩn này bộc lộ rõ nhất trong quan niệm về mục đích ý
nghĩa của giáo dục và cách tổ chức bộ máy giáo dục.
Về tất cả các phương diện cơ bản nói trên, giáo dục miền
Nam được làm ngược với giáo dục miền Bắc. Điều này càng thấy rõ khi phân tích
ba nguyên tắc căn bản dân tộc, nhân bản và khai phóng mà giáo dục miền
Nam đề ra cho mình. Giáo dục miền Bắc có cách giải thích hoàn toàn khác về ba
nguyên tắc ấy, thực chất là hoàn toàn xa lạ với những tiêu chuẩn của giáo dục
hiện đại.
ABSTRACT
The author was educated in the North from childhood. The
article presents his self-awareness of the education he had received, in
comparison with the education in the South to initially clarify the differences
between these two educations in the period of 1954-1975.
Established during the years of war and required to serve
the war, the education system in the North, considered itself a revolutionary education,
had the characteristics of a non-standard education. Education is made
voluntaristically, bypassing the requirements of every standard education
system. That non-standard education is clearly reflected in the conception of
the significance and purposes of education and the organization of the
education system.
For all the basic aspects mentioned above, the education
in the South was quite contrary. That feature is quite apparent when analyzing
three basic principles of humanism, nationalism, libertarianism in
education that the South defined. In the North, these three principles are
interpreted differently, which is completely unfamiliar with the standards of a
modern education.
*
Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu
văn học cổ điển; muốn hiểu văn học VN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu
văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở
Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức
sơ sài bề ngoài.
Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc
(GDMB) ở tôi lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm
thấy ở GDMN một điểm đối chiếu.
Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo
dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn
lên và nay tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn
xếp loại nền giáo dục tôi đã hấp thụ.
Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một
chút: Nhận diện giáo dục Hà Nội từ 1975 về trước qua sự đối
chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.
KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN
CẢNH HÌNH THÀNH
Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ
hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái
điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.
Ngay từ những năm 1948 – 50, nền giáo dục tự phát trước
tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ Việt Bắc,
những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ, rồi
tập trung và có ý nghĩa nhất với tương lai giáo dục là những quan niệm, những
cách hình thành, các trường sở… về sau.
Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của
lối phát triển giáo dục trong chiến tranh.
Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học được
trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được một
số hiệu quả nào đó.
Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ là chỉ một
hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ kháng chiến
tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động được đặt lại
trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế. Quan niệm
giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.
Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục
dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền
giáo dục mới mẻ, cách mạng .
Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền giáo dục
như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ trước
cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau này
chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.
Đối tượng của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực
thể quá khác nhau, còn phải nghiên cứu công phu, ý kiến của chúng tôi chỉ
mới là những phác thảo sơ bộ.
CHUẨN VÀ PHI CHUẨN
Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng chiến đã
trở về Hà Nội cái tinh thần giáo dục phi tiêu chuẩn hôm qua cần phải
vượt qua, thì — như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận — nó lại
ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của GDMB
Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại
tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh
ra đã bất thành nhân dạng.
Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện,
nhưng thấy cần, vẫn cứ làm — rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống
chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.
Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng
viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là
đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng
cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương
tự… trở về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi
theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là
giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế
thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và
không khí học thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là
chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo
ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có
cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải
theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.
Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì
mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng
yên.
KHÁC BIỆT TRONG QUAN
NIỆM
Về bộ máy giáo dục
Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục
ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật — hồi đó, bản thân giáo dục là một
hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con người riêng của
nó.
Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn
Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện
tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay
không làm gì chỉ về mở trường trong vùng.
Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học
quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện — là người do triều đình cử, chứ không phải
do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải
duyệt.
Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở
đây do những người thành thạo chuyên môn quyết định.
Còn ở miền Bắc thì hoàn toàn ngược lại.
Nhiều vị sư do địa phương phân công vào chùa hoạt động,
hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự,
nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.
Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban
cử sang.
Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.
Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo
nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn
hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.
Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị
trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng
được – người ta hiểu vậy.
Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở thời
Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ
liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai.
Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề
xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng
Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.
Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể
có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng
Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à
uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như hiện nay.
Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là
mọi cấp quan chức của giáo dục.
Một trong những chuyện vui vui xảy ra với nền giáo
dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh,
khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát
các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.
Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và
người ta cố tình che giấu như thế nào.
Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường
vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho
biết cái gì thì dân được biết cái đó.
Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc
chính trị một cách thô thiển. Những năm 55 – 58, tôi học cấp II Chu Văn
An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới
thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng
đường để hoan nghênh các vị khách quý.
Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc
gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.
Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi
việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra
sao, thì không ai cần biết.
Những nguyên tắc căn bản của giáo dục
Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều
trên báo chí, nhất là trên mạng.
Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục
mà đến nay ít được biết tới.
Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75,
một nhà giáo dục đồng thời trước đây là một quan chức trong nghề (như trên
đã nói, quan chức giáo dục ở miền Nam khác hẳn quan chức miền Bắc),
ông Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo
mới là nhân bản khai phóng dân tộc những nguyên tắc này đã ghi trong Hiến
pháp VNCH 1967.
Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái
thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích
khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không có một ý
niệm gì hết.
Về tính dân tộc
Ta hãy đọc lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam.
Ở đây, bảo đảm tính dân tộc, phát triển tinh thần quốc gia của học sinh có
nghĩa
giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã
hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử
nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người
dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và
sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của
quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền
thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những
phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự
lập.
Các nhà giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng
điểm nhấn thì khác. Trong cách giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính
dân tộc trước tiên là việc dân mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường
tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có
dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã
mang lại. Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời
thuộc địa.
Đây là cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng
đề xuất và được coi là tư tưởng chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.
Một khía cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền
Bắc. Không phải là những người làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự
trấn an, người ta biện hộ rằng trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như
GDMB đang trở lại với nền giáo dục của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ
cốt phát huy tinh thần hiếu học của con người.
Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta
về ta tắm ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.
Cũng chính là những lý do được viện dẫn khi, trong đời sống
văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với các phong tục cổ hủ và khuếch
trương mê tín đến một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.
Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc được các
nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.
Về tính nhân bản
Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục
miền Bắc phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.
Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực
phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến
tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.
Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền
Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có
nhiệm vụ hướng tới.
Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân
đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân
đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.
Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi
trái tim ta của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con
người ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:
– Miền Nam ta ơi
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất
nhân tình
Giới giáo dục miền Bắc cũng theo sự chỉ đạo đó.
Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược
hẳn. Theo tôi hiểu, nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.
Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của
nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.
Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh
Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.
Khi bàn về mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:
Mục đích tối thượng của giáo dục
là làm thế nào giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của
mình, hầu có thể sống trọn kiếp nhân sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện
được con người của mình trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại thế,
một hữu thể có lý trí và tự do, vừa suy tư vừa hành động”.
Lê Thanh Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo dục
nxb Trẻ,1970 tr 209
Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề
lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi
Hà Nội được tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954), không làm gì có những
con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc về một giai cấp do đó họ phải sự
chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp của họ. Cách hiểu của GDMN:
chấp nhận có sự khác biệt giữa các
cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người,
và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng
tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền
được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng
dụng. Mà trong thực tế, lại làm ngược.
Trước sau, với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện
đại, và đặt vấn đề tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một
chuyện quá phiền phức, giá có công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời
không cho phép người ta tuân thủ.
Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống
chủ nghĩa cá nhân.
Thế thì làm sao có thể tính chuyện nghiên cứu về
con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có trong họ được!
Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản
miền Nam
Triết lý nhân bản chủ trương con người
có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu
cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất
cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/
phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê
phán.
Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có tính chỉ đạo
đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực
cho cuộc chiến đấu trước mắt được nhấn mạnh. Chỉ xin lưu ý một điểm, đó
không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà còn là
nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga
xô viết.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo
dục nxb Trẻ đã nói, có một phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước
ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của
Anh Mỹ và Pháp mà viết lại. Phần viết về giáo dục Nga kết lại như sau:
–Xét chung thì nền giáo dục ở Nga rất thực tiễn
và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành
một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu – VTN] tới mức tối đa. Một khi con
người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó
chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng
lại phi nhân tính. (Sđd tr. 228)
Có thể mượn để nói về GDMB.
Về tính khai phóng
Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong các tài liệu
GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi, chữ khai phóng là hơi lạ.
Mở Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng
( Khai trí S.1975), thấy ghi khai phóng tức mở mang
và buông thả, ý nói làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ, mà trái lại, muốn
giúp đỡ cho tiến xa hơn.
Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào đó, khai
phóng có vẻ gần với khái niệm hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường
dùng cả trong kinh tế lẫn giáo dục.
Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các nguyên tắc
căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với khái niệm cơ bản của
nhân học hiện đại là tự do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.
Trong cuốn Chân dung những nhà cải cách giáo dục
tiêu biểu trên thế giới, do tổ chức Unesco bảo trợ biên soạn và chi
phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết
về Thái Nguyên Bồi (1868-1940), có đoạn dẫn lại mấy ý của vị Hiệu trưởng
sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới phương hướng phát triển
giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX:
Chúng ta phải được tự do tư tưởng và
tự do ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại
hình tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới
những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể
không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng đáng với tên gọi nền giáo dục
toàn cầu.(sđ d tr138 )Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển
trí lực và hoàn thiện tính cách cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại.
Bởi vậy giáo dục không hể trở thành công cụ đặc biệt giúp cho những
kẻ muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà
trường phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập không bị ảnh hưởng bởi
bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr 143).
Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một khía cạnh
chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.
Tinh thần khai phóng này cũng chi phối cách các nhà
GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB chấp nhận.
Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập đến rất
sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:
Tinh thần dân tộc không nhất thiết
phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng,
tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận
tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào
việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn
minh thế giới.
là theo tinh thần khai phóng vừa nói.
Với GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với
GDMN, chính là cần khai phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt
để.
Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo
dục ở Sài Gòn đã nóicũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được.
Thậm chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.
Hẳn là không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục
thế giới và GDMN là khai phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới
các mục đích trước mắt – một tinh thần thiển cận sát mặt đất–, thì tinh thần
khai phóng mà GDMN muốn xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương
lai.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục đã nói, ở tr
204 tập I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:
Mục đích của giáo dục là huấn luyện
trẻ không phải chỉ nhằm vào sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội
hiện tại mà nhằm một tình trạng có thể tốt đẹp hơn, hợp với một
quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).
GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.
ĐOẠN KẾT
Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục ở miền Bắc
đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.
Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều nước trên
thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét theo cả chặng
đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của mình, hóa ra lại
chẳng tuân theo quy luật nào cả.
Nếu GDMN được triển khai theo một đường hướng khoa học của
thế giới hiện đại thì GDMB lại có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.
Cần nói thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm,
những người làm giáo dục ở miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng
ta đang làm một cuộc cách mạng trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền
giáo dục tiên tiến.
Đó là một ý nguyện chính đáng.
Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín. Muốn thì
cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới, làm gì có
chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.
Cuộc sống trì trệ kéo dài.
Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà
trường phổ thông và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài
liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt với GDMN, thì GDMB cũng
khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra
tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú
ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên
và hiệu quả.
Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ
đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác
được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người
trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương
Tây, nhất là sang Mỹ để học. Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ
thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn
ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu
nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra
thoát.
---------------------------
Mục lục
CHUYÊN
ĐỀ GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954-1975)
Giáo
dục miền Nam Việt Nam (1954-1975) trên con đường xây dựng và phát triển/Education
in the South of Vietnam (1954-1975) on the path of building and
development
|
|
Trần
Văn Chánh
|
4
|
Giáo
dục tiểu học và trung học ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)/Primary and
secondary education in South Vietnam (1954-1975)
|
|
Cao
Văn Thức
|
53
|
Nền
giáo dục đại học ở miền Nam Việt Nam trước 1975/Higher education in South
Vietnam before 1975
|
|
Nguyễn
Văn Nhật
|
75
|
Vấn
đề địa phương hóa giáo dục tại miền Nam trước năm 1975/The issue of
localization in education in South Vietnam before 1975
|
|
Nguyễn
Duy Chính
|
92
|
Viện
Đại học Sài Gòn và các trường trực thuộc/The University of Saigon and its
affiliated colleges
|
|
Khánh
Uyên
|
110
|
Viện
Đại học Huế: Vạn sự khởi đầu nan/The University of Huế: It is the first step
that counts
|
|
Cao
Văn Luận
|
124
|
Giáo
dục Hán học trong biến động văn hóa xã hội: Viện Hán học Huế
(1959-1965)/Sinology under socio-cultural unrest: The Sinology Institute in
Huế (1959-1965)
|
|
Nguyễn
Tuấn Cường
|
135
|
Giáo
dục tư nhân ở miền Nam trước 1975 qua bản Quy chế Tư thục/Private education
in South Vietnam before 1975 from the Decree in Private Schools
|
|
Trần
Văn Chánh
|
165
|
Học
và dạy học thời Việt Nam Cộng hòa/Learning and teaching in the Republic of
Vietnam
|
|
Dương
Văn Ba
|
173
|
Chương
trình giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng hòa/Education programs
and textbooks in the Republic of Vietnam
|
|
Trần
Văn Chánh
|
184
|
Mô
hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc Tiểu học ở miền Nam trước năm 1975/Model
of Vietnamese textbooks for primary education in South
Vietnam before 1975
|
|
Nguyễn
Thị Ly Kha
|
242
|
Nhìn
lại nền giáo dục miền Nam Việt Nam (1954-1975)/An overview on the education
in South Vietnam (1954-1975)
|
|
Châu
Trọng Ngô
|
255
|
Mấy cảm
nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc/Some
thoughts on the educational differences between the North and the South of
Vietnam
|
|
Vương
Trí Nhàn
|
No comments:
Post a Comment