Posted
on Jan 14, 2015
Henry
Kissinger
(1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình
(1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger
Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the
Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp.
Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 – Toward an Asian Order: Confrontation
or Partnership?, World Order, 212- 233. (LND)
Xem
thêm:
Phần
III: Một triển vọng lâu dài
Ảnh: Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger
and bìa sách của ông, “World Order.” (Juergen Frank / Penguin Press), Ảnh: LA
Times
*
* *
Một đặc
điểm chung các quốc gia châu Á là họ có ý thức mình là biểu tuợng cho những nước
“đang trổi dậy” hay là “hậu thuộc điạ”. Tất cả các nước này đã cố vượt qua một
di sản của thời kỳ thuộc địa cai trị bằng cách tự khẳng định về một bản sắc dân
tộc hùng cường. Các nước này cùng chia sẽ một niềm tin là một trật tự cho thế
giới ngày nay đang tái lập một tình trạng quân bình sau khi phương Tây đột nhập
bất thường trong nhiều thế kỷ vừa qua, nhưng phương Tây đã rút ra nhiều bài học
to tát khác nhau từ trong các cuộc phiêu lưu lịch sử của họ. Khi các quan chức
cao cấp cố gợi lại những quyền lợi cốt lõi, một số người trong giới này hướng về
truyền thống văn hoá dị biệt và lý tưởng hoá các thời vàng son khác nhau.
Theo
các hệ thống chính trị trong châu Âu vào thế kỷ XVIII và XIX, việc bảo tồn một
tình trạng quân bình về cán cân quyền lực – và do ảnh hưởng của việc duy trì
nguyên trạng – được xem là ưu điểm. Tại châu Á, hầu hết mỗi quốc gia đều bị
thúc dục bởi những tính năng động của chính mình. Tự tin là mình đang trổi dậy,
các nước này hoạt động trong một niềm tin là thế giới chưa khẳng định một vai
trò toàn diện cho mình. Thậm chí ngay cả không có một quốc gia nào tìm hiểu về
chủ quyền tối thượng và phẩm giá của các quốc gia khác, tất cả cùng kiên quyết
đeo đuổi một chính sách ngoại giao theo kiểu một là thắng và hai là thua, việc
đồng loạt thực thi nhiều chương trình xây dựng uy tín quốc gia đưa ra một biện
pháp làm thay đổi cho một trật tự trong khu vực. Với sự tiến hoá của nền công
nghệ hiện đại, các cường quốc của châu Á đã trang bị cho mình bằng nhiều công
xưởng vũ khí quân sự có sức công phá nhiều hơn cả khả năng của một quốc gia
châu Âu hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX có được, nhờ thế họ còn gây thêm những
nguy hiểm do việc tính toán sai lạc.
Vì thế,
tổ chức của châu Á là một thách thức cố hữu cho một trật tự của thế giới. Do
tình trạng nhận thức của một số cường quốc và việc theo đuổi quyền lợi quốc
gia, đúng ra là do cán cân của quyền lực như là một hệ thống của các nước lớn
đã định hình cho một cơ chế về một trật tự mà nó đã phát triển trước đây. Những
thử nghiệm của các nước này là chuyện khả thi, cho dù nó có nằm trong quan hệ đối
tác xuyên Thái Bình Dương hay không, khi nó đem sẽ lại một khuôn khổ hoà bình
cho việc tương tác của nhiều lợi ích đã được minh định.
Một
Trật Tự Quốc Tế Của Châu Á và Trung Quốc
Trong tất
cả những khái niệm về một trật tự cho thế giới ở châu Á, Trung Quốc đã vận hành
một ý tưởng bền bỉ nhất, định nghĩa rõ ràng nhất và sâu xa nhất theo hoà ước
Westphalian[i]. Trung Quốc cũng đã theo đuổi một cuộc
hành trình phức tạp nhất, từ thời văn minh cổ đại thông qua đế chế cổ điển, cho
đến cách mạng Cộng sản, rồi đạt đến tình trạng một cường quốc hiện đại – một tiến
trình sẽ có tác động sâu đậm đến nhân loại.
Từ khi
Trung Quốc thống nhất như là một thực thể chính trị duy nhất vào năm 221 trước
Công nguyên cho đến đầu thế kỷ XX, vị thế trung tâm của Trung Quốc trong trật tự
của thế giới đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo đến độ mà không có
một từ nào trong Hoa ngữ để diễn đạt cho ý tưởng này. Chỉ qua cách suy tưởng nội
quan mà các học giả định nghĩa về một hệ thống triều cống của Trung Quốc trong
tinh thần thần phục “Dĩ Hoa Vi Trung“. Trong khái niệm truyền thống này, Trung
Quốc tự nhận thức mình như là một chính quyền duy nhất có chủ quyền của thế giới.
Hoàng đế của Trung Quốc tự xem mình là biểu tượng có tầm vóc hoàn vũ và có vai
trò then chốt giữa con người và thần thánh. Tầm nhắm của vua không phải là
Trung Quốc, một quốc gia có chủ quyền, – có nghĩa là đặt lãnh thổ dưới quyền
cai trị trực tiếp của mình – mà còn “tất cả trong thiên hạ” và trong đó Trung
Quốc tạo nên phần chính yếu và văn minh: “một vương quốc ở trung tâm”, nhằm gây
nguồn cảm hứng và làm thăng hoa cho phần còn lại cuả nhân loại.
Theo
quan điểm này, một trật tự của thế giới phản ảnh một hệ thống quyền lực rộng khắp
hoàn vũ, không chỉ đem lại một tình trạng quân bình của các quốc gia có chủ quyền
đang cạnh tranh. Mỗi một xã hội, khi được kết thân, được xem là có một loại
quan hệ triều cống với Trung Quốc, một phần vì dựa vào sự gần gũi văn hoá,
nhưng không ai có thể đạt đến tinh trạng bình đẳng với Trung Quốc. Các vương quốc
khác không là những nước đồng đẳng có chủ quyền, mà là những học trò nghiêm túc
nhất trong nghệ thuật lãnh đạo, phấn đấu hướng tới văn minh. Ngoại giao không
phải là một tiến trình thương lượng giữa nhiều quyền lợi tối thượng, nhưng là một
loạt các nghi lễ được trù liệu cẩn trọng mà các nước ngoài có cơ hội xác quyết
đuợc vị thế của mình trong hệ thống phân cấp quyền lực trong toàn cầu. Theo cổ
thư của Trung Quốc, để giữ đúng theo quan điểm này, thì những gì mà ngày nay gọi
là “chính sách đối ngoại” thì khi xưa là một lĩnh vực thuộc Bộ Lễ, được xác định
các sắc thái trong mối quan hệ triều cống, và Vụ Biên Phòng chuyên trách quản
lý mối quan hệ với các bộ lạc du mục. Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, Bộ Ngoại
giao Trung Quốc chưa hề được thành lập và sau đó là nhăm lo cho việc đối phó với
kẻ xâm lăng phương Tây. Thậm chí các quan chức coi nhiệm vụ của mình như là
cách thực hành theo truyền thống của công tác quản lý người man rợ, không có gì
được họ coi như là một chính sách ngoại giao theo hệ thống Westphalian. Một Bộ
mới mang danh hiệu “Vụ Quản lý Quốc tế Sự vụ”, có hàm ý là Trung Quốc không
tham gia kết ước trong các chính sách ngoại giao liên quốc.
Mục
tiêu của hệ thống triều cống là thúc đẩy lòng tôn trọng, không thu tóm lợi lộc
kinh tế hay chế ngự xã hội các nước ngoài bằng quân sự. Một thành tựu kiến trúc
ấn tượng nhất của Trung Quốc là Vạn lý Trường thành kéo dài với khoảng hơn năm
ngàn dặm do Hoàng đế Tần Thủy Hoàng khởi công. Ông là người đánh bại tất cả các
đối thủ bằng quân sự, kết thúc thời Chiến Quốc và thống nhất Trung Quốc. Đó là
một di chúc huy hoàng về một chiến thắng quân sự, nhưng cũng có những giới hạn
cố hữu của nó trong việc biểu thị quyền lực rộng lớn, cùng gắn liền với ý thức
về khả năng bị tổn thương. Từ ngàn năm nay, Trung Quốc cố tìm cách thu hút và lôi
kéo những kẻ đối nghịch nhiều hơn là cố đánh bại họ bằng những sức mạnh quân sự.
Dù có những phân tích cơ bản cho thấy là Trung Quốc là một cường quốc có ưu thế
quân sự, một vị quan thượng thư thời nhà Hán (206 B. C- A.D. 220) đã mô tả “năm
miếng mồi“ mà ông đề nghị để quản lý các bộ lạc từ Hung Nô cho đến biên thùy
Tây Bắc Trung Quốc:
“Tặng
cho họ … quần áo và xe ngựa để làm mờ mắt họ, tặng cho họ cao lương mỹ vị để
làm câm miệng họ, tặng nhạc và dâng gái cho họ để làm bùi tai họ, cho họ nhà
cao cửa rộng, kho thóc và gia nhân để lo cho đầy dạ dày của họ … và đối với kẻ
đến hàng phục, nhà vua (nên) bày tỏ ân huệ cho họ bằng cách bày ra yến tiệc tiếp
đãi, đích thân nhà vua phải hầu rượu và thực phẩm cho họ để làm họ mềm lòng. Những
cách này có thể được gọi chung là năm miếng mồi ngon.“
Một đặc
điểm nổi bật trong những nghi lễ ngoại giao của Trung Quốc là lễ khấu đầu, –
qùy gối và đê đầu chạm đất để công nhận quyền tối thượng của Hoàng đế – đó là một
sự hạ mình, điểm chắc chắn là nghi thức này là một bước cản trở cho việc bang
giao với các nước tân tiến phương Tây. Nhưng khấu đầu là hành vi tự nguyện có
tính cách tượng trưng: Đó là lòng tôn trọng biểu lộ của một người không bị
chinh phục khi khiếp sợ. Trong những trường hợp như thế, giá trị triều cống cho
Trung Quốc thường vượt quá mức, nếu so với giá trị các quà đáp lễ của nhà vua.
Theo
truyền thống, Trung Quốc cố tìm cách chế ngự về phương diện tâm lý bằng những
thành quả hay thái độ ứng xử của mình, – thảng hoặc có xen kẻ qua những cuộc
hành quân nhằm dạy cho kẻ man rợ ngoan cố một “bài học“ và khiến họ phải tôn
kính. Cả hai mục tiêu chiến lược và phương cách cơ bản để thu phục tâm lý qua một
cuộc xung đột có vũ trang này đã được minh chứng gần đây trong chiến cuộc giữa
Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962 và với Việt Nam năm 1979, cũng như những phương
cách mà Trung Quốc xác nhận những quyền lợi cốt lõi của họ đối với các lân quốc.
Mãi cho
đến nay, Trung Quốc không là một xã hội mang sứ mệnh truyền giáo theo như nghiã
của phương Tây về thuật ngữ này. Trung Quốc cố tìm cách tạo ra sự khâm phục,
không tạo sự thay đổi, họ không bao giờ làm sai đường lối tinh tế này. Nhiệm vụ
của họ là tạo thành quả mà họ kỳ vọng là ngoại bang sẽ hiểu ra và thừa nhận. Đối
với một nước khác thì việc trở thành một người bạn, kể cả là bạn vong niên, đó
là chuyện khả thi, nhưng họ sẽ không bao giờ được coi là bạn đồng đẳng với
Trung Quốc. Chuyện trớ trêu là chỉ có hai nước ngoại gần đạt được một tình trạng
tương tự này lại là những kẻ đi chinh phục. Một trong những đặc điểm kỳ diệu của
đế quốc văn hoá trong lịch sử là có hai dân tộc chinh phục Trung Quốc; đó là
Mông Cổ vào thế kỷ XIII và Mãn Châu vào thế kỷ XVII; – cả hai bị thuyết phục phải
chấp nhận đặc điểm chủ yếu về văn hoá Trung Quốc, vì để làm cho việc cai trị dễ
dàng một dân tộc quá đông và quá cương ngạnh, trong khi Trung Quốc giả định về
tính ưu việt văn hoá của mình. Xã hội Trung Quốc, dù bị đánh bại, những đã đồng
hoá được những kẻ đi chinh phục đến mức độ mà các phần lớn trong lãnh thổ nhà bị
coi như là theo Trung Quốc từ truyền thống. Trung Quốc không cố tìm cách xuất
khẩu hệ thống chính trị của mình, đúng hơn, Trung Quốc nhìn thấy các nước khác
tìm đến họ. Theo ý nghĩa này, Trung Quốc mở rộng không bằng chinh phục mà do sự
thẩm thấu.
Trong kỷ
nguyên hiện đại, vì theo quan điểm về tính ưu việt văn hoá của mình, nên những
đại biểu của phương Tây đã bày tỏ việc đưa Trung Quốc tham gia vào hệ thống thế
giới thuộc về châu Âu, mà hệ thống này trở thành một cấu trúc cơ bản cho một trật
tự cho thế giới. Họ gây áp lực với Trung Quốc nên vun bồi mối quan hệ với các
nơi khác trên thế giới bằng cách trao đổi sứ thần, cho tự do mậu dịch và mang lại
nhiều hạnh phúc hơn cho dân chúng với việc hiện đại hoá nền kinh tế và mở cửa
xã hội để chấp nhận tín ngưỡng Thiên Chúa giáo.
Những
gì mà phương Tây quan niệm như một tiến trình khai sáng và kết ước thì được
Trung Quốc xem là một cuộc tấn công. Trước tiên, Trung Quốc cố tìm cách lẫn
tránh rồi sau đó chống đối triệt để. Khi George Macartney, đặc sứ Anh Quốc đầu
tiên đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVIII, ông có mang theo một vài phẩm vật đầu
tiên của cuộc Cách mạng Công nghiệp và bức thư của Hoàng đế Georg III đề nghị
cho tự do mậu dịch và thiết lập sứ quán thường trú cho hai nước tại Bắc Kinh và
Luân Đôn. Chiếc tàu của Trung Quốc đưa vị sứ thần này đi từ Quảng Châu đến Bắc
Kinh kết đầy hoa có mang biểu ngữ đề chữ xem ông như là “Sứ thần Anh quốc triều
cống cho Hoàng đế Trung Quốc”. Vị sứ thần bị thải hồi kèm theo một lá thư gởi
cho Hoàng đế nước Anh để giải thích rằng không có vị sứ thần nào được phép lưu
trú tại Bắc Kinh, bởi vì “châu Âu gồm có nhiều nước khác ngoài qúy quốc, nếu từng
nước một và tất cả các nước cùng xin được có đại biểu tại triều đinh, thì làm
sao hoàng triều có thể chấp thuận được? Đó là chuyện bất khả thi.“ Hoàng đế
không thấy có nhu cầu cho việc mua bán nào vượt qua giới hạn số lượng nhỏ bé đã
được quy định, bởi vì Anh quốc không có mặt hàng gì được Trung Quốc ưa chuộng:
“Dù
xoay chuyển trong một thế giới rộng lớn, nhưng trước mắt cụ thể, Trẩm có một mục
tiêu là duy trì sự cai trị tốt đẹp và hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước, các
mục tiêu xa lạ và tốn kếm đều không làm cho Trẩm quan tâm. Nếu Trẩm ra lệnh cho
tiếp nhận các phẩm vật triều cống do qúy quốc gởi tới, đó chỉ là vì Trẩm chiếu
cố với tinh thần là những phẩm vật này từ xa gởi tới . . . Như sứ thần của qúy
quốc cũng có thể tự thấy được là Trung Quốc có tất cả mọi thứ hàng.“
Sau khi
Napoleon bại trận, khi từng bước mở rộng ngoại thương, nước Anh thử tìm một
cách khác để mở cửa giao dịch, phái một đặc sứ thứ nhì cùng với những đề xuất
tương tự. Phô diễn hải lực của Anh quốc trong chiến tranh với Napoléon đã không
làm thay đổi được cách đánh giá của Trung Quốc về sự mong muốn trong quan hệ
ngoại giao. Trong khi sứ thần William Amherst không chịu tham dự lễ khấu đầu,
xin lỗi vì lấy cớ là ông chưa có bộ phẩm phục dự chầu, nhiệm vụ của ông bị thải
hồi, và nước Anh không còn thiết tha gì về bất cứ một nỗ lực ngoại giao nào
khác. Nhà vua gởi một thông điệp cho Hoàng tử Nhiếp chính của Anh quốc để giải
thích với giọng như là “Đại chuá tể trong thiên hạ”, Trung Quốc không thể bị
phiền nhiễu bởi vì phải đưa mỗi vị sứ thần man rợ đi vào trong một nghi lễ
trang nghiêm. Sử liệu của hoàng gia ghi nhận là “Qúy quốc từ đại dương xa xôi đến
để đề xuất lòng trung thành của mình và ao ước đạt được trình độ văn minh,
“nhưng, (như một ấn phẩm của cơ quan truyền giáo của phương Tây vào thế kỷ XIX
đã dịch lại sắc chỉ này):
“Từ
nay trở đi, không cần gởi thêm một đặc sứ nào từ phương xa tới, mà kết quả chỉ
là phí sức cho chuyến đi. Nếu Qúy quốc có thể, nhưng tâm có khuynh hướng là
tùng phục, thì Qúy quốc được phép gởi sứ bộ đến hoàng triều vào bất cứ lúc nào;
đó là cách đích thực để tiến tới văn minh. Để Qúy quốc có thể tuân phục vĩnh viễn,
nay Trẩm ban chiếu chỉ này.”
Nếu so
với chuẩn mực cuả ngày nay thì những lời cảnh báo này dường như là quá kiêu ngạo
– và xúc phạm quá mức đối với một nước đã duy trì tình trạng quân bình tại châu
Âu và có thể tự xem mình là cường quốc tiên tiến về công nghiệp, kinh tế và hải
quân – Hoàng đế tự biểu lộ với cung cách theo như lý tưởng về vị thế của mình
trong thế giới mà mình đã chinh phục từ ngàn năm nay và các dân tộc láng giềng
bị khiến tối thiểu là phải tuân chiều.
Các cường
quốc phương Tây, trong sự xấu hổ của mình, đã mang những vấn đề lên trên vấn đề
tự do mậu dịch, khi họ kiên quyết lập luận dựa theo quyền nhập khẩu không bị hạn
chế – như là thành quả của tiến bộ phương Tây -, để họ bán bạch phiến, một sản
phẩm gây tác hại hiển nhiên nhất. Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh đã xao
lãng về một nền công nghệ quốc phòng, một phần là vì họ không bị ai thách thức
trong một thời kỳ dài, mà chủ yếu vì quân đội chiếm vị thế thứ yếu theo quan niệm
trật tự xã hội của Khổng giáo, như họ diễn đạt qua câu nói: “Sắt tốt không dùng
để làm móng tay, người tốt không trở thành lính giỏi”. Ngay khi bị các cường quốc
phương Tây tấn công, nhà Thanh xuất tiền trong ngân quỹ quốc phòng vào năm 1893
để trùng tu một chiếc tàu làm bằng cẫm thạch rực rỡ trong cung điện muà hè của
hoàng gia.
Do lúc
đang bị áp lực quân sự nặng nề nhất thời vào năm 1842, Trung Quốc ký các thoả ước
tương nhượng các yêu sách của phương Tây. Nhưng Trung Quốc không từ bỏ ý thức độc
tôn của mình và chiến đấu triệt thoái trong ngoan cường. Sau khi ghi được một
chiến công có tính cách định đoạt trong chiến tranh 1856-58 (chống lại việc một
chiếc tàu có đăng ký tại Anh, bị cáo giác là tịch thu trái phép tại Quảng
Châu), Anh kiên quyết theo một thoả ước quy định về một quyền mà họ tranh đấu từ
lâu, đó là quyền cho sứ thần được lưu ngụ tại Bắc Kinh. Năm sau, khi đến nhậm
chức với đoàn tùy tùng trong khí thế khải hoàn, vị sứ thần Anh nhận ra trên các
tuyến đường sông chính hướng về thủ đô bị phong toả bởi những xích và kẽm gai.
Ông ra lệnh cho lực lượng thủy quân lục chiến Anh dẹp chướng ngại, quân đội
Trung Quốc khai hoả, 519 lính Anh chết và 456 người khác bị thương trong trận
đánh kế tiếp. Anh liền gởi một lực lượng dưới sự chỉ huy của Lord Elgin đột
kích Bắc Kinh và tiêu huỷ cung điện muà hè khi triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Việc
can thiệp thô bạo này buộc triều đình miễn cưỡng chấp nhận lập một khu vực làm
toà công sứ cho các đại biểu ngoại giao lưu ngụ. Sự tùng phục của Trung Quốc
trong khái niệm của một chính sách ngoại giao hỗ tương theo hệ thống
Westphalian thuộc các quốc gia có chủ quyền là miễn cưỡng và phẫn uất.
Trọng
tâm của các tranh chấp này là một vấn đề rộng lớn hơn: Có phải Trung Quốc là một
trật tự cho toàn bộ thế giới không, hay chỉ là một nước như những nước khác và
là một thành phần trong hệ thống thế giới rộng hơn? Trung Quốc bám chặt vào tiền
đề truyền thống. Vào cuối năm 1863, sau hai lần thất trận do cường quốc man rợ
và nội loạn tràn lan (loạn Thái Bình) dập tắt được là do lời kêu gọi lực lượng
ngoại quốc, Hoàng đế đã gởi một thư tới Abraham Lincoln để đảm bảo với ông về một
đặc ân của Trung Quốc: “Vì nhận được mệnh trời để cai trị thế gian, nên Trẩm
xem Trung Quốc và các nước khác bên ngoài như là tạo thành một gia đình mà
không có phân biệt.”
Năm
1872, James Legge, người Tô Cách Lan, là một nhà Trung Quốc học nổi danh, ông
đã nói rõ vấn đề và niềm tin về tính ưu thế hiển nhiên của khái niệm ở phương
Tây về một trật tự của thế giới vào thời của ông ta:
“Trong
suốt 40 năm qua, vị thế của Trung Quốc trong vấn đề đối với các nước tiên tiến
hơn của thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Trung Quốc đã kết ước với họ trong những
điều kiện bình đẳng; nhưng nhìn từ bề ngoài bằng một cách công bình, thì tôi
không nghĩ là các quan thượng thư và dân chúng của họ vẫn chưa nhìn thấy sự thực
này phải đối diện, để họ hình dung một sự thực là Trung Quốc chỉ là một trong số
những quốc gia độc lập trên thế giới, và “trong thiên hạ“, Hoàng đế của họ là
có quyền cai trị, nhưng không phải là cai trị thiên hạ trong mọi bầu trời,
nhưng chỉ là một phần trong bầu trời, như được định nghiã trong bề mặt của trái
đất và có thể được chứng minh trên bản đồ.“
Khi nền
công nghệ và trào lưu mậu dịch buộc các hệ thống tương phản tiếp xúc nhau nhiều
hơn, thì quy luật của một trật tự thế giới nào sẽ chiếm ưu thế?
Tại
châu Âu, hệ thống Westphalia là kết quả tự nhiên của một loạt các quốc gia độc
lập trong thực tế sau khi chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc. Châu Á bước vào kỷ
nguyên hiện đại mà không có một cơ cấu đặc biệt nào về tổ chức quốc gia và quốc
tế. Hệ thống này bao gồm nhiều trung tâm văn minh, được bao bọc bởi các vương
quốc nhỏ hơn, với một tập hợp các cơ chế tương tác lẫn nhau trong tinh tế và
luôn thay đổi.
Tài
nguyên phì nhiêu của vùng đồng bằng Trung Quốc, một nền văn hoá về tinh thần
kiên cường lạ thường và sự nhạy bén chính trị tạo khả năng cho Trung Quốc duy
trì được một thời kỳ hơn hai ngàn năm và gây ảnh hưởng đáng kể về các mặt văn
hoá, kinh tế và chính trị – ngay cả khi Trung Quốc có điểm yếu về quân sự theo
chuẩn mực thông thường. Lợi điểm tương đối nằm ngay trong sự thịnh vượng của nền
kinh tế, nó sản xuất những sản phẩm mà tất cả các lân quốc mơ ước. Định hình
theo những yếu tố này, tư tưởng của Trung quốc về một trật tự của thế giới hoàn
toàn khác biệt với kinh nghiệm của châu Âu, khi họ dựa trên đa số của các nước
bình đẳng.
Vở kịch
của Trung Quốc phải đương đầu với thế giới phương Tây phát triển và Nhật Bản là
ảnh hưởng của các đại cường quốc, mà họ có tổ chức như là các quốc gia có chủ
trướng bành trướng văn minh. Thoạt đầu, Trung Quốc thấy cạm bẩy của một nhà nước
hiện đại như là một sự hạ mình cho họ. Sự trổi dậy của Trung Quốc về đặc điểm
ưu việt trong thế kỷ XXI không là chuyện mới, nhưng là tái lập lại một khuôn mẫu
lịch sử. Điểm đặc sắc là Trung Quốc trở thành một người thừa kế một nền văn
minh xa xưa và còn là một siêu cường hiện đại theo mô hình của hoà ước Westphalian.
Trung Quốc kết hợp những di sản của khái niệm “Gồm thâu Thiên hạ”, hiện đại hoá
kỹ trị, và một mưu cầu để tổng hợp hai nhiệm vụ này cho đất nước trong thế kỷ
XX đầy những biến động bất thường.
Còn
tiếp…
_______
[i] Hoà ước Westphalia
là một loạt các thoả ước được ký kết từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1648 tại hai
thành phố Osnabrück và Münster (Đức) nhằm kết thúc chiến tranh Ba mươi năm
(1618- 1648) tại Trung Âu (Holy Roman Empire) và chiến tranh Tám mươi năm
(1569-1648) giữa Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các hoà ước Westphalia này đã định
hình cho một hệ thống chính trị mới cho các quốc gia châu Âu với các khái niệm
chủ yếu là tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, vẹn toàn lãnh thổ và nguyên tắc bất
can thiệp vào nội bộ nước khác. Các khái niệm này sau trở thành nền tảng cho luật
quốc tế nhờ sự chuẩn nhận của Cơ quan Liên Hiệp Quốc. (CTCND)
Bài
liên quan:
Bản Tổng Kết Của Một Cố Vấn: Phỏng Vấn Henry Kissinger Do
Christoph Amend Và Matthias Nass Thực Hiện
Giới
Thìệu Sách: Hồ Sơ tội trạng Của Henry Kissinger. Chistopher
Hitchens, The Trial of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001, 159
pp.
Book
Review Essay – Henry Kissinger – World Order: Reflections on the Character of
Nations and the Course of History, Penguin Press, 2014, 432 pp.
*
Posted
on Jan 17, 2015
Henry
Kissinger
(1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình
(1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger
Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the
Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp.
Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 – Toward an Asian Order: Confrontation
or Partnership?, World Order, 212- 233. (LND)
*
* *
Trung Quốc và Một Trật tự Của Thế Giới
Chế độ
hoàng triều sụp đổ vào năm 1911. Sự thành lập chế độ Cộng hoà Trung Quốc dưới sự
lãnh đạo của Tôn Dật Tiên vào năm 1912 đã để lại cho Trung Quốc một chính quyền
trung ương yếu kém và mở đầu một một thập niên của các sứ quân. Vào năm 1928 dưới
sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, một chính quyền trung ương mạnh hơn được
thành lập và cố tạo điều kiện cho Trung Quốc đảm nhiệm một vị thế trong khái niệm
theo hoà ước Westphalian về một trật tự của thế giới và trong một hệ thống kinh
tế toàn cầu. Nỗ lực để trở thành một Trung Quốc vừa hiện đại vừa giữ được truyền
thống, Trung Quốc cố thích nghi vào trong một hệ thống quốc tế, mà hệ thống này
tự nó đang nằm trong biến động. Tuy nhiên, tại thời điểm này, Nhật Bản đã tiến
hành chương trình hiện đại hoá sớm hơn nửa thế kỷ, nay đã nỗ lực dành quyền bá
chủ châu Á. Theo sau hành vi chiếm đóng Mãn châu vào năm 1931 là hàng loạt các
cuộc xâm chiếm của Nhật Bản trải dài từ vùng Trung nguyên và phía Đông Trung Quốc
vào năm 1937. Chính phủ Quốc Dân Đảng bị ngăn trở trong việc củng cố vị thế, và
loạn quân Cộng sản có được phạm vi hoạt động. Dù trổi dậy như một cường quốc của
Đồng minh thắng trận với sự kết thúc của thế chiến thứ hai vào năm 1945, Trung
Quốc bị phân hoá do nội chiến và hỗn loạn cách mạng mà nó gây thách thức cho tất
cả các mối quan hệ và các di sản.
Vào
ngày 1 tháng 10 năm 1949 tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản
thắng trận, tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc với với các lời
lẽ: “Nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy”. Mao đề ra khẩu hiệu này khi Trung Quốc
thanh lọc và tự lực tăng cường qua giáo điều của “cuộc cách mạng liên tục“ và
tiến hành loại bỏ các khái niệm đã thành hình trước đây về trật tự quốc nội và
quốc tế. Toàn bộ của các phạm vi thuộc về thể chế đều bị công kích: nền dân chủ
phương Tây, sự lãnh đạo của Liên Xô trong thế giới Cộng sản và một di sản về
quá khứ của Trung Quốc. Nghệ thuật và các lăng tẩm, các ngày lễ hội và truyền
thống, ngôn ngữ và y phục bị cấm đoán qua nhiều hình thức khác nhau, tất cả bị
cáo buộc là gây ra tinh thần thụ động khiến cho Trung Quốc không chuẩn bị đối
phó ngoại xâm. Trong khái niệm của Mao về một trật tự, điểm mà ông gọi là một
“sự hoà hợp vĩ đại“, có âm hưởng triết học cổ điển của Trung Quốc – một Trung
Quốc hiện đại sẽ vươn lên thoát khỏi sự hủy diệt của truyền thống văn hoá Nho
giáo mà nó nhấn mạnh đến sự hài hoà. Ông tuyên bố rằng mỗi đợt sóng của nỗ lực
cách mạng sẽ phục vụ như người đi tiên phong cho các đợt sóng cách mạng theo
sau. Mao lập luận là tiến trình cách mạng phải được tăng tốc, vì sợ rằng những
nhà cách mạng sẽ tự mãn và lười biếng: “Tình trạng bất quân bình là một qui luật
tổng quát và khách quan.” Mao viết:
Chu
kỳ này không kết thúc, nó phát triển từ tình trạng bất quân bình sang tình trạng
quân bình rồi thì từ quân bình lại sang bất quân bình. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ
mang đến cho chúng ta một trình độ phát triển cao hơn. Tình trạng bất quân bình
là bình thường và tuyệt đối trong khi tình trạng quân bình là tạm thời và tương
đối.
Kết cuộc,
biến động này nhằm để mang lại một loại thành quả theo truyền thống Trung Quốc:
một hình thức của chủ nghĩa Cộng sản thuộc về đặc thù nội tại cho Trung Quốc, tự
đặt tách ra cho mình một hình thức độc tôn của hành vi ứng xử mà nó thay đổi là
do thành tựu của mình, trước kia Trung Quốc có độc quyền về luân lý, nay độc
quyền này mang tính đạo đức cách mạng, một lần nữa nó làm xoay trong khái niệm
về “Gồm thu Thiên hạ”
Mao chỉ
đạo các vấn đề quốc tế bằng cách đặt nhiều tin cậy tương tự vào tính độc tôn của
Trung Quốc. Về mặt khách quan, dù Trung Quốc là yếu, nếu đo với sức mạnh của
các nơi khác trên thế giới, Mao kiên quyết nhấn mạnh về vai trò trọng yếu của
Trung Quốc qua tính ưu việt về mặt tâm lý và ý thức hệ, nó được biểu hiện qua
việc thách thức nhiều hơn là hoà hợp với thế giới, một thế giới đang nhấn mạnh
đến uy quyền kinh tế tối thượng. Khi phát biểu trong một hội nghị quốc tế của
các lãnh tụ Đảng Cộng Sản tại Mạc Tư Khoa vào năm 1957, Mao gây chấn động cho
các đại biểu tham dự bằng cách tiên đoán là trong trường hợp có biến cố với chiến
tranh hạt nhân, là quốc gia đông dân nhất và có nền văn hoá kiên cường, Trung
Quốc sẽ là người chiến thắng sau cùng, và Trung Quốc không thay đổi tiến trình
cách mạng ngay cả khi hằng trăm triệu dân bị thương vong. Trong khi lời tuyên bố
này có phần nào là đánh lừa các nước có những công xưởng vũ khí hạt nhân rộng lớn
nản lòng, Mao muốn thế giới tin là Mao nhìn vấn đề chiến tranh hạt nhân với
lòng bình thản. Vào tháng 7 năm 1971 – trong chuyến viếng thăm bí mật của tôi tại
Bắc Kinh – Chu Ân Lai đã đúc kết khái niệm về trật tự thế giới của Mao bằng
cách viện dẫn lời của Mao Chủ tịch về tầm nhìn của các vị hoàng đế Trung Quốc với
gịong điệu miã mai: “Cả trong thiên hạ đang hỗn loạn, tình hình là tuyệt vời”.
Từ trong một thế giới nhiễu nhương, Cộng Hoà Nhân Dân, được rèn luyện qua nhiều
năm tranh đấu, cuối cùng sẽ đứng lên đạt chiến thắng, không phải chỉ ở Trung Quốc,
mà còn khắp mọi nơi “trong thiên hạ”. Trật tự thế giới theo thuyết Cộng sản sẽ
hoà quyện với quan điểm truyền thống của hoàng triều.
Giống
như nhà sáng lập triều đại đầu tiên hùng cường nhất của Trung Quốc (221-207 trước
Công nguyên) là Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, Mao cố gắng thống nhất Trung Quốc,
trong khi ông cũng tìm cách phá hoại truyền thống xa xưa mà ông cáo buộc là làm
cho Trung Quốc bị suy yếu và sĩ nhục. Ông trị vì theo một phương cách từ xa giống
như cách của bất cứ vị Hoàng đế nào (dù các vị Hoàng đế không cần triệu tập quảng
đại quần chúng), ông kết hợp cách này với những cách áp dụng của Lenin và
Stalin. Cách cai trị của Mao thể hiện nhiều khó khăn trong việc tiến thoái của
đấu tranh cách mạng. Những thay đổi do cách mạng càng càn quét bao nhiêu, thì
Mao càng gặp chống đối bấy nhiêu. Sự chống đối này không nhất thiết là do giới
đối kháng thuộc về ý thức hệ hay chính trị, nhưng còn do sự trì trệ của người
trong Đảng. Nhà tiên tri cách mạng đã đem cái chết của mình ra để thách thức nhằm
tăng tốc cho lịch trình hành động và nhân rộng hơn về những phương tiện để thực
hiện viễn kiến của mình. Mao tung ra chiến dịch Bước Tiến Nhãy Vọt đầy tai hoạ
vào năm 1958 để buộc phải công nghiệp hoá nhanh chóng và Cách mạng Văn hoá vào
năm 1966 để thanh trừng giới lãnh đạo, tất cả nhằm ngăn ngưà tiến trình thể chế
hoá trong một chiến dịch ý thức hệ dài cả hằng chục năm, lưu đày một thế hệ trẻ
có trình độ học vấn lui về nông thôn. Hàng chục triệu người chết trong khi theo
đuổi mục tiêu của Mao – hầu hết bị loại trừ mà không kể thương hay ghét, buộc
phải kết liễu cuộc đời, những gì mà đến nay được xem là một quá trình lịch sử.
Những
cuộc cách mạng thắng lợi khi thành quả cách mạng được bảo đảm và cái giá phải
trả cho thành quả này được xem như không thể tránh được. Một số nhà lãnh đạo hiện
nay của Trung Quốc đã chịu đựng những tổn thất khá nặng nề trong thời Cách mạng
Văn hoá, nhưng hiện nay, họ trình bày rằng đau khổ đem lại cho họ sức mạnh và
khám phá chính mình để tự rèn luyện cho các nhiệm vụ khó khăn về lãnh đạo một
thời kỳ khác của sự chuyển hoá toàn diện. Và dân chúng Trung Quốc, đặc biệt giới
trẻ đã trực tiếp trải nghiệm gian lao, dường như họ chấp nhận sự mô tả Mao chủ
yếu như là một mẫu người kết hợp nhân danh phẩm giá Trung Quốc. Khiá cạnh nào của
di sản này là có ưu thế – thách thức của chủ nghĩa Mao trêu chọc cho thế giới
hay sự kiên cường trong thầm lặng, mà đặc điểm này đạt được qua thời kỳ biến động
của Mao – và sẽ đóng vai trò quyết định mối quan hệ của Trung Quốc về một trật
tự của thế giới trong thế kỷ XXI.
Trong
thời kỳ đầu tiên của cuộc Cách mạng Văn hoá, Trung Quốc tự chọn có bốn vị đại sứ
trên toàn thế giới và đối đầu với hai siêu cường có hạt nhân là Hoa Kỳ và Liên
Xô. Vào cuối thập niên 1960, Mao thừa nhận Cách mạng Văn hoá đã làm cạn kiệt khả
năng chịu đựng của người Hoa mà họ đã được thử thách qua hàng ngàn năm trước và
sự cô lập của Trung Quốc gây thu hút cho ngoại quốc can thiệp. Mao cố tìm cách
khắc phục bằng một tinh thần ngoan cố theo ý thức hệ lẫn sự thách thức. Năm
1969, Liên Xô dường như đang sắp tấn công Trung Quốc khiến cho Mao phải sơ tán
các Bộ về các tỉnh, và chỉ có Thủ tướng Chu Ân Lai còn ở lại Bắc Kinh. Để đối
phó với cuộc khủng hoảng này, Mao phản ứng lại với cách chuyển chiều hướng bất
ngờ thật đặc biệt. Ông chấm dứt mọi khía cạnh vô chính phủ nhất của Cách mạng
Văn hoá bằng cách dùng quân đội dẹp tan Hồng Vệ Binh, lực lựợng đã gây tai biến
– đưa họ về nông thôn, nơi mà họ lần đầu tiên tham gia chung với các nạn nhân
thuở trước của họ, mà kỳ thực, là làm trong các trại lao động cưỡng bách. Và
ông cố trấn áp Liên Xô bằng cách chuyển hướng về một đối thủ mà từ trước đến
nay ông luôn phỉ báng, đó là Hoa Kỳ.
Mao ước
tính rằng việc mở cửa cho Hoa Kỳ sẽ chấm dứt sự cô lập của Trung Quốc và các nước
khác có được một sự biện minh để công nhận Công Hoà Nhân Dân Trung Quốc. (Một
điểm thú vị là khi tôi đang chuẩn bị chuyến đi lần đầu tiên, một bản phân tích
của CIA cho là những xung đột Liên Xô và Trung Quốc đang căng thẳng, nên dễ làm
cho sự xích lại của Hoa Kỳ và Trung Quốc thành khả thi, nhưng sự cuồng nhiệt về
ý thức hệ của Mao sẽ ngăn trở tiến trình này trong suốt cả đời ông)
Những
cuộc cách mạng, cho dù có sức càn quét đến đâu chăng nữa, cần phải được cũng cố,
rút cuộc, các lúc sôi nổi cần phải thích ứng cho những gì có thể duy trì được
qua thời gian. Đó chính là vai trò lịch sử mà Đặng Tiểu Bình đã đóng. Dù ông đã
hai lần bị Mao thanh trừng, hai năm sau khi Mao chết vào năm 1976, ông trở
thành nhà lãnh đạo có hiệu năng. Ông nhanh chóng tiến hành cải cải cách kinh tế
và mở cửa xã hội. Theo đuổi những gì mà ông gọi là “Xã hội chũ nghiã với đặc
trưng Trung Quốc”, ông cởi trói những năng lực tiềm tàng của người dân Trung Quốc.
Không đầy trong vòng một thế hệ, Trung Quốc thăng tiến để trở thành một nền
kinh tế mạnh hàng thứ nhì trên thế giới. Để tăng tốc sự chuyển hoá đầy ngoạn mục
này, – nếu không nhất thiết là do niềm tin – Trung Quốc hoà nhập trong các thể
chế quốc tế và chấp nhận những quy luật đã được quy định cho một trật tự thế giới.
Tuy
nhiên, sự tham gia của Trung Quốc theo những đặc điểm của cấu trúc của hoà ước
Westphalia mang đến cho họ một sự mâu thuẩn đã phát sinh trong lòng lịch sử.
Trung Quốc đem khía cạnh này khi tham gia vào hệ thống nhà nước trên chính trường
quốc tế. Trung Quốc không quên rằng từ ban đầu họ bị buộc phải kết ước với một
trật tự quốc tế sẳn có theo cách hoàn toàn trái ngược với hình ảnh lịch sử của
họ, hoặc đối với những nguyên tắc của hệ thống Westphalia đã được thừa nhận, họ
cũng chiụ y như vậy. Khi bị thúc dục tham gia vào “quy luật của cuộc chơi” và
“trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế, các phản ứng nội tại của số đông người
Trung Quốc – kể cả các giới lãnh đạo cao cấp – họ đã bị ảnh hưởng cực kỳ sâu đậm
bởi nhận thức rằng Trung Quốc đã không tham gia trong tiến trình lập pháp cho hệ
thống. Khi họ được yêu cầu – và, như là một vấn đề thận trọng, họ đồng ý – tuân
thủ luật pháp mà họ đã không tham gia trong việc lập pháp. Nhưng họ kỳ vọng rằng
– và sớm muộn gì họ sẽ hành động đúng theo ước vọng này – một trật tự quốc tế
phát triển theo cách tạo điều kiện cho Trung Quốc trở nên là người tham gia chủ
động trong công tác lập pháp, ngay cả việc duyệt xét lại một số các luật lệ
đang hiện áp dụng.
Trong
khi chờ đợi việc này thành hình, Bắc Kinh ngày càng tích cực hơn trên chính trường
thế giới. Với sự trổi dậy của Trung Quốc là cường quốc kinh tế có tiềm năng mạnh
nhất trên thế giới; hiện nay, trong từng diễn dàn quốc tế, người ta tìm kiếm
các quan điểm và hỗ trợ của Trung Quốc. Trung Quốc đã tham gia một vài khía cạnh
có tính cách phô trương uy thế trong những hoạt động của phương Tây trong thế kỷ
XIX và XX: thí dụ như đăng cai tổ chức Thế Vận hội, các nhà lãnh đạo đọc diễn
văn trước diễn đàn Liên hiệp quốc, thăm viếng hỗ tương giữa các nguyên thủ quốc
gia và các chính quyền của các cường quốc khắp thế giới. Dù theo chuẩn mực nào,
thì Trung Quốc cũng đã lấy lại được một tư thế đã nổi danh trong nhiều thế kỷ với
những ảnh hưởng sâu rộng nhất của mình. Vấn đề đặt ra trước mắt là Trung Quốc sẽ
ứng xử với một trật tự thế giới như thế nào trong sự tìm kiếm hiện nay, đặc biệt
nhất là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ.
*
* *
Hoa Kỳ
và Trung Quốc là hai trụ cốt thiết yếu cho một trật tự của thế giới. Điểm đáng
chú ý là cả hai nước cùng thể hiện trong lịch sử một thái độ nước đôi để hướng
tới một hệ thống quốc tế mà hiện nay họ đem lại sự ổn định, bằng cách là họ xác
định những kết ước cho hệ thống này, ngay cả khi họ dành quyền xét đoán những
khiá cạnh của việc phác thảo. Khi Trung Quốc được yêu cầu phải đóng một vai trò
như là một quốc gia chủ chốt trong số các quốc gia khác cho một trật tự của thế
kỷ XXI, họ không có tiền lệ cho vai trò này như một quốc gia quan trọng trong số
các quốc gia khác. Hoa Kỳ cũng không có kinh nghiệm trong việc tương tác với Trung
Quốc dựa trên cơ sở lâu dài, một nước có cùng trong một tầm vóc tương tự, khả
năng gây ảnh hưởng và thánh tựu kinh tế, mà Trung Quốc có những mô hình về trật
tự quốc nội hoàn toàn dị biệt.
Các nền
tảng chính trị và văn hoá của hai phiá khác biệt nhau trong các khía cạnh quan
trọng. Đường lối của Hoa Kỳ hướng về chính sách là thực tiển; phương sách của
Trung Quốc dựa theo khái niệm. Hoa Kỳ không hề có một lân quốc hùng mạnh nào đe
doạ; Trung Quốc không hề có một kẻ nghịch thù hùng mạnh nào ngay biên giới. Người
Mỹ cho là mỗi một vấn đề đều có giải pháp; người Hoa nghĩ rằng mỗi một giải
pháp là một cơ hội mở ra thêm một loạt vấn đề mới. Người Mỹ tìm kết quả đáp ứng
với tình hình trước mắt; người Hoa tập trung giải quyết trên sự thay đổi tuần tự
tiến hoá. Người Mỹ phác thảo một chương trình nghị sự với các đề mục thực tiễn
“có thế chuyển giao được“ cho đối tác; Người Hoa đề ra những nguyên tắc tổng
quát và phân tích tìm ra ở đâu họ sẽ lãnh đạo. Suy nghĩ của nguời Hoa một phần
định hình do chủ nghĩa Cộng sản, nhưng bao gồm cả cách suy nghĩ theo truyển thống
của Trung Quốc đến một mức độ mà nó ngày một gia tăng. Cả hai điểm này không nằm
trong trực giác quen thuộc của người Mỹ.
Trong lịch
sử của hai nước, chỉ mới gần đây, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tham gia toàn diện
trong một hệ thống quốc tế của các quốc gia có chủ quyền. Trung Quốc tin rằng
mình là độc tôn và hàm chứa chủ yếu là có một thực tại riêng biệt. Hoa Kỳ cũng
thế, cũng tự coi mình là độc nhất – có nghĩa là “một ngoại lệ“ -. nhưng với một
nghĩa vụ đạo đức để hỗ trợ cho giá trị này khắp thế giới với nhiều lý do ngoài
phạm vi biện luận vì nhân danh chính nghĩa quốc gia là thể diện. Hai xã hội to
lớn với những nền văn hoá dị biệt và với những cơ sở làm tiền đề khác nhau, cả
hai đang tiến hành điều chỉnh những vấn đề nền tảng thuộc phạm vi quốc nội, cho
dù liệu rằng hành vi này được chuyển sang thành cạnh tranh hay là đem lại một
hình thức mới của quan hệ đối tác hay không, chủ yếu nó sẽ định hình cho một
triển vọng về trật tự của thế giới của thế kỷ XXI.
Kể từ
khi có cuộc cách mạng, thì hiện nay thế hệ thứ năm đang lãnh đạo Trung Quốc. Mỗi
nhà lãnh đạo trước đây đã đãi lọc những tầm nhìn đặc biệt của thế hệ về nhu cầu
của Trung Quốc. Mao Trach Đông kiên quyết bứng tận gốc các thể chế đã hình
thành, kể cả thể chế mà ông đã xây dựng trong gia đoạn đầu của chiến thắng, vì
ông e rằng thể chế sẽ gây trì trệ do các chiều hướng quan liêu của Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bỉnh nhận ra rằng Trung Quốc không thể đãm nhận vai trò lịch sử của
mình, trừ khi Trung Quốc dấn thân trong các vấn đề quốc tế. Phong cách của Đặng
là tập trung mạnh vào chủ điểm: không phô trương uy thế, vì sợ rằng các nước
ngoài sẽ lo âu – không yêu sách làm lãnh đạo, nhưng mở rộng ảnh hưởng của Trung
Quốc bằng cách hiện đại hoá cả xã hội lẫn nền kinh tế. Dựa trên cơ sở này,
Giang Trạch Dân, người được bổ nhiệm trong cuộc khủng hoảng Thiên An Môn, đã khởi
động vào năm 1989 một chính sách ngoại giao cá nhân của mình trong tầm vóc quốc
tế và mở rộng cơ sở của Đảng Cộng Sản trong phạm vi quốc nội để khắc phục hậu
quả. Ông ta lãnh đạo Trung Quốc tham gia vào một hệ thống quốc tế và mậu dịch
quốc tế như là một thành viên toàn phần. Là người do Đặng tuyển chọn, Hồ Cẩm
Đào khéo léo xoa dịu những quan tâm về quyền lực của Trung Quốc ngày một tăng
lên và gây dựng cơ sở cho một khái niệm về khuôn mẫu mới của mối quan hệ giữa
các siêu cường, do Tập Cận Bình đề xuất.
Dưới sự
lãnh đạo của Tập Cận Bình, ông cố xây dựng các di sản này bằng cách thực hiện
chương trình cải cách rộng lớn theo quy mô của Đặng. Trong khi từ bỏ dân chủ,
ông ta dự phóng một hệ thống sẽ hình thành với nhiều minh bạch mà kết quả được
xác định bởi thủ tục pháp lý nhiều hơn là do một khuôn mẫu theo những mối quan
hệ cá nhân và gia đình đã có. Việc này đưa ra những thách thức đối với một vài
thể chế đã hình thành và hoạt động – thí dụ như thuộc về xí nghiệp quốc doanh,
dựa thế vào các quan chức địa phương, và tham nhũng tràn lan – bằng cách ông kết
hợp viễn kiến với lòng can đảm, nhưng chắc chắn mang lại cho cải cách một thời
kỳ có nhiều phương tiện dồi dào và bất trắc.
Thành
phần của giới lãnh đạo Trung Quốc phản ảnh sự tiến triển của Trung Quốc nhằm hướng
tới việc tham gia và ngay cả việc định hình trong các vấn đề quốc tế. Năm 1982,
không có một thành viên nào của Bộ Chính trị có trình độ đại học. Lúc tôi viết
sách này thì hầu hết những người này đã có trình độ đại học, một số nhân vật
quan trọng đã có trình độ cao học. Văn bằng đại học ở Trung Quốc dựa theo giáo
trình theo kiểu của phương Tây, không phải là di sản của hệ thống quan lại củ,
(hoặc là giáo trình theo Đảng Cộng Sản mà họ áp đặt nhồi nhét trí thức theo
hình thức của họ). Việc này biểu hiện một sự thanh toán triệt để với quá khứ của
Trung Quốc, trong khi người Hoa đã bị buộc chặt và tự hào về những nhận thức của
họ về thế giới ngoài những phạm vi gần gũi. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay bị
ảnh hưởng bởi những kiến thức của họ về lịch sử Trung Quốc, nhưng họ không bị
giam hãm trong hoàn cảnh của lịch sử.
Còn
tiếp…
_______
Bài
liên quan:
Bản Tổng Kết Của Một Cố Vấn: Phỏng Vấn Henry Kissinger Do
Christoph Amend Và Matthias Nass Thực Hiện
Giới
Thìệu Sách: Hồ Sơ tội trạng Của Henry Kissinger. Chistopher
Hitchens, The Trial of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001, 159
pp.
Book
Review Essay – Henry Kissinger – World Order: Reflections on the Character of
Nations and the Course of History, Penguin Press, 2014, 432 pp.
*
Posted
on Jan 20, 2015
Henry
Kissinger
(1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình
(1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger
Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the
Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp.
Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 – Toward an Asian Order: Confrontation
or Partnership?, World Order, 212- 233. (LND)
Xem
thêm:
*
* *
Một Triển Vọng Lâu Dài
Nhưng
xung đột tiềm tàng giữa một cường quốc đã thành hình và một cường quốc đang nổi
lên không phải là chuyện mới. Điều không thể tránh được là cường quốc đang trổi
dậy chạm phải một số lĩnh vực mà từ trước đến nay được xem là dành độc quyền
cho cường quốc đã thành hình. Cũng tương tự như vậy, cường quốc đang trổi dậy
nghi ngờ đối thủ của mình có thể dẹp tan sự tăng trưởng của mình trước khi quá
trể. Một công trình nghiên cứu của Đại học Harvard chứng minh rằng có 15 trường
hợp trong lịch sử, khi cường quốc đã thành hình và đang trổi dậy va chạm nhau,
thì có đến 10 trường hợp là kết thúc bằng chiến tranh.
Chính
vì thế mà không ngạc nhiên gì khi thấy những nhà tư tưởng chiến lược có tầm vóc
của cả hai phiá đề xuất những quy cách ứng xử và kinh nghiệm lịch sử để tiên
đoán những xung đột không thể tránh được giữa hai xã hội. Về phiá Trung Quốc, một
vài hành động của Hoa Kỳ được giải thích như là một phác thảo một mô hình nhằm
ngăn chận sự trổi dậy của Trung Quốc, và sự cổ vũ của Hoa Kỳ trong lĩnh vực
nhân quyền được xem như là một đề án làm suy yếu cấu trúc chính trị quốc nội của
Trung Quốc. Một vài nhân vật chủ yếu mô tả cái gọi là chính sách chuyển trục của
Hoa Kỳ như là khúc dạo đầu trong màn trình diển chót để đọ sức nhằm buộc Trung
Quốc phải chịu vị thế thứ yếu thường trực – một thái độ để càng đáng được chú ý
nhiều hơn, bởi vì Hoa Kỳ không liên hệ đến bất cứ một cuộc tái phối trí quân sự
nào đáng kể vào lúc mà tôi viết tác phẩm này.
Về phiá
Hoa Kỳ, có nỗi lo sợ là Trung Quốc càng lớn mạnh sẽ làm suy yếu tính ưu việt của
Hoa Kỳ một cách có hệ thống và chính vì thế ảnh hưởng đến tình hình an ninh của
Hoa Kỳ. Khi so sánh tình trạng tương tự như Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh,
các phe nhóm chủ chốt nhìn ra rằng khi Trung Quốc quyết tâm đạt được việc chế
ngự quân sự cũng như kinh tế trong tất cả những vùng lân cận, và cuối cùng thì
từ đó họ kết luận Trung Quốc là bá quyền.
Cả hai
phiá đều tăng cường những cuộc thao diễn quân sự và chương trình quốc phòng
trong khi có những ngờ vực nhau. Trong tình trạng bình thường, ngay khi cả hai
nước có những biện pháp bảo vệ quyền lợi quốc gia một cách hợp lý, – khi sự bảo
vệ này được hiểu một cách đại thể – thì họ giải thích theo những điều kiện của
những kịch bản tồi tệ nhất. Mỗi phiá phải có trách nhiệm cho vấn đề bảo vệ, vì
e rằng những huy động và ứng xử đơn phương của họ làm leo thang thành một cuộc
chạy đua vũ trang. Hai phiá cần hấp thụ từ trong lịch sử của thập niên
trước thế chiến thứ nhất, khi một bầu không khí ngờ vực ngày càng hiện dần và đối
đầu tiềm ẩn gia tăng đến độ thành thảm hoạ. Các nhà lãnh đạo của châu Âu bị sập
trong một cái bẩy do cách lập kế hoạch quân sự của mình và họ không có khả năng
để tách các khó khăn của chiến thuật ra khỏi kế hoạch của chiến lược.
Có hai
vấn đề khác đang góp phần cho sự căng thẳng trong mối quan hệ Trung Quốc và Hoa
Kỳ. Trung Quốc từ bỏ một đề nghị mà trong đó một trật tự quốc tế được thúc đẩy
do sự lan toả của nền dân chủ tự do và cộng đồng thế giới phải có nghĩa vụ thực
hiện, và đặc biệt nhất là nó sẽ đạt được một tình trạng nhận thức về nhân quyền
bởi các tác động quốc tế. Hoa Kỳ có thể điều chỉnh cách áp dụng quan điểm của
mình về các vấn đề nhân quyền trong mối quan hệ với những ưu tiên thuộc về chiến
lược. Nhưng trong ánh sáng của lịch sử và niềm tin của dân chúng, Hoa Kỳ không
bao giờ từ bỏ tất cả những nguyên tắc chung này. Về phiá Trung Quốc, giới lãnh
đạo nhìn chủ đề này đúng theo như lời của Đặng Tiểu Bình phát biểu:
Thực
ra, chủ quyền tối thượng của quốc gia là quan trọng hơn các vấn đề nhân quyền,
nhưng nhóm Bảy hay Tám cường quốc thường vi phạm quyền tối thượng của các quốc
gia nghèo và yếu của thế giới thứ Ba. Những thuơng thảo của họ về các vấn đề
nhân quyền, tự do và dân chủ chỉ nhằm đặt ra để bảo vệ quyền lợi của các quốc
gia giàu mạnh. Họ tận dụng sức mạnh của mình để dọa nạt nước yếu hầu theo đuổi
bá quyền và thực hiện chính trị theo quyền lực.
Không một
thỏa hiệp chính thức nào có thể đạt được giữa các quan điểm này; giử sao cho những
bất hoà tránh thành xung đột gia tăng là một trong những nghiã vụ chính của các
nhà lãnh đạo của cả hai phía.
Một vấn
đề trước mắt quan hệ đến Bắc Hàn, mà một câu cách ngôn của Bismarck từ thế kỷ
XIX chắc chắn là áp dụng được: “Chúng ta đang sống trong thời gian kỳ diệu mà kẻ
mạnh là kẻ yếu vì sự thận trọng, và kẻ yếu thành kẻ mạnh do sự táo bạo.“ Bắc
Hàn cai trị không theo nguyên tác chính thống được chuẩn nhận, thậm chí cũng
không theo nguyên tắc của Cộng Sản như họ tuyên bố. Thành tựu chính của họ là
xây dựng một vài thiết bị hạt nhân. Bắc Hàn không có khả năng quân sự để gây
chiến với Hoa Kỳ. Những sự tồn tại các vũ khí này có ảnh hưởng chính trị vượt
xa hơn những tiện ích quân sự. Họ gây khích lệ tác động cho Nhật Bản và Nam Hàn
tạo khả năng hạt nhân quân sự. Họ khuyến khích Bình Nhưỡng chấp nhận rủi ro
không cân xứng với khả năng của mình, gây thêm nguy hiểm cho một cuốn chiến
khác trên bán đảo Triều Tiên.
Đối với
Trung Quốc, Bắc Hàn là hiện thân của các di sản phức tạp. Trong nhãn quan của một
vài người Hoa, chiến tranh Hàn quốc được xem là một biểu tượng về lòng quyết
tâm của Trung Quốc nhằm kết thúc “một thế kỷ bị sĩ nhục“ và “trổi dậy“ trên
chính trường thế giới, nhưng cũng là một lời cảnh báo chống lại các việc tham
chiến mà về nguồn gốc thì Trung Quốc không thể kiểm soát được và các hậu quả có
thể kéo dài nghiêm trọng và ngoài dự kiến. Đó là lý do tại sao Trung Quốc và
Hoa Kỳ cùng một quan điểm tại Đại Hội Đồng Bảo An LHQ trong việc đòi hỏi Bắc
Hàn từ bỏ – không cắt giảm – chương trình hạt nhân.
Đối với
chế độ Bình Nhưỡng, từ bỏ vụ khí hạt nhân có thể liên hệ đến tình trạng phân hoá
chính trị. Nhưng từ bỏ là chuyện rõ ràng, đó là những gì mà Hoa Kỳ và Trung Quốc
công khai đòi hỏi trong các Nghị Quyết của LHQ mà họ đã hỗ trợ. Hai nước cần phối
hợp các chính sách của mình để dự phóng trong trường hợp mà các mục tiêu đề ra
được thực hiện. Liệu việc này có thể kết hợp các quan tâm và các mục tiêu của
hai phía về vấn đề Hàn quốc? Liệu Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể tiến hành một chiến
lược hợp tác cho một Hàn Quốc giải giới vũ khí hạt nhân và thống nhất, để cho tất
cả các phe phái sống trong an bình và tự do hơn không? Đây là một biện pháp quy
mô nhằm hướng tới “một khuôn mẫu mới cho các mối quan hệ của cường quốc”, một
sách lược thường được đề cập nhưng việc hình thành còn quá chậm.
Những
nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ nhận ra rằng họ không tài nào biết được phản
ứng của dân chúng Trung Quốc đối vối chương trình nghị sự quá rộng lớn, họ đang
chèo chống trong một vùng biển lạ. Họ không muốn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu ở
nước ngoài, nhưng họ sẽ chống lại mọi sự thâm nhập vào những lĩnh vực mà họ định
nghĩa như là quyền lợi cốt lõi, có lẽ với tinh thần quyết liệt hơn các vị tiền
nhiệm; nói một cách chính xác hơn, bởi vì họ cảm thấy có trách nhiệm giải thích
các điều chỉnh không thể tách rời khỏi chương trình cải cách qua việc nhấn mạnh
về quyền lợi quốc gia. Bất cứ một trật tự quốc tế nào bao gồm cả Hoa Kỳ và
Trung Quốc đều phải có liên hệ đến tình trạng quân bình của cán cân quyền lực,
nhưng việc điều hành xưa củ của việc quân bình cần phải được giảm nhẹ bằng cách
thoả thuận dựa trên luật lệ và thúc đẩy bởi các yếu tố của hợp tác.
Những
nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và Trung Quốc đã thừa nhận công khai là quyền lợi chung
của hai quốc gia đang phác hoạ một kết quả xây dựng. Hai vị Tổng Thống của Hoa
Kỳ (Barack Obama và George W. Bush) đã thoả thuận với hai vị tương nhiệm Trung
Quốc (Tập Cận Bình và Hồ Cẩm Đào) để tạo ra một quan hệ đối tác chiến lược tại
khu vực Thái Bình Dương, làm thành một cách cho việc duy trì tình trạng quân
bình trong khi giảm bớt đe doạ quân sự cố hữu trong vấn đề. Tính đến nay, các bảng
tuyên bố về ý định chung không phù hợp với các bước cụ thể trong chiều hướng đã
thỏa thuận.
Quan hệ
đối tác không thể nào thành tựu do bảng tuyên cáo. Không một thoả ước nào có thể
bảo đảm cho một quy chế đặc biệt cho Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ đến lúc cảm nhận mình
là một cường quốc đang suy vi – một vấn đề có do chọn lựa, không phải là chuyện
định mệnh – Trung Quốc và các nước khác sẽ thành công trong việc lãnh đạo thế
giới, một tình trạng mà Hoa Kỷ đã hành sử hầu như trong suốt một thời kỳ sau thế
chiến thứ hai sau một thời kỳ giữa hỗn loạn và biến động
Nhiều
người Hoa có thể thấy Hoa Kỳ là một siêu cường vượt qua đĩnh cao của mình. Tuy
nhiên, trong giới lãnh đạo của Trung Quốc, họ cũng công nhận là Hoa Kỳ sẽ duy
trì khả năng lãnh đạo quan trọng trong tương lai gần. Nền tảng cho việc xây dựng
một trật tự cho thế giới tốt đẹp không phải là do một quốc gia duy nhất, không
phải là do Hoa Kỳ mà cũng không phải là do Trung Quốc có đủ tư thế tự mình đảm
nhận vai trò lãnh đạo thế giới theo cách mà Hoa Kỳ đã thực hiện thời kỳ ngay
sau khi Chiến tranh Lạnh, khi mà Hoa Kỳ còn có những ưu điểm nổi bật cả về kinh
tế lẫn tâm lý.
Tại
Đông Á, Hoa Kỳ không hẳn là một cán cân, một thành phần không thể thiếu để đạt
tới tình trạng quân bình. Những chương trước đây đã chứng minh được của tình trạng
quân bình là mong manh, vì số lượng các thành phần tham gia là các nước nhỏ và
thay đổi lòng trung thành có thể trở thành yếu tố quyết định. Một phương sách
thuần túy về quân sự cho tình trạng quân bình tại Đông Á dường như sẽ dẫn đến
việc liên kết, thậm chí nó còn cứng rắn hơn so v ới sự liên kết đã gây ra thế
chiến thứ nhất.
Tại
Đông Á, có một cái gì đó đang tiến gần tới tình trạng quân bình trong cán cân
quyền lực giữa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, và Hoa Kỳ, với những thảnh viên
ngoại vi là Liên Xô và Việt Nam. Nhưng tinh trạng này khác biệt với tình trạng
quân bình trong cán cân quyền lực thuộc về lịch sử mà nó có một thành viên chủ
yếu là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có trọng tâm hấp lực của mình, nằm xa với trọng tâm điạ
lý của Đông Á – và trên hết, dù lực lượng quân sự của hai nước tự cảm nhận là kẻ
thù thông qua các tạp chí quân sự và trong các lời tuyên bố cũng nói về về mối
quan hệ đối tác như là một mục tiêu của các vấn đề chính trị và kinh tế. Vì vậy,
việc xãy ra là Hoa Kỳ là một đồng minh của Nhật Bản và tuyên dương xem Trung Quốc
như một bạn đối tác, – một tình trạng tương tự như dưới thời Bismarck khi ông
liên minh với Áo để tạo quân bình với Liên Xô do một thoả ước. Nghịch lý rõ
ràng vì tình trạng mơ hồ duy trì được tính cách mềm dẻo cho tình trạng quân
bình tại châu Âu. Và sự từ bỏ này – khi nhân danh sự minh bạch – tạo nên hằng
loạt các cuộc đối đầu ngày càng gia tăng, mà cao điểm là thế chiến thứ nhất.
Trong
hơn một thế kỷ, – kể từ khi có chính sách Mở Cửa và trung gian hoà giải của
Theodore Rossevelt về chiến tranh giữa Liên Xô và Nhật Bản – đã có một chính
sách cố định của Hoa Kỳ để ngăn ngừa tình trạng bá quyền tại châu Á. Trong tình
trạng hiện nay, Trung Quốc có một chính sách không thể tránh được để kiềm chế
các lực lượng có tiềm năng đối đầu là làm tìm cách cho nó càng xa biên giới
càng tốt. Cả hai nước di động trong phạm vi này. Duy trì hoà bình tùy thuộc vào
mức kiềm chế mà hai quốc gia theo đuổi những mục tiêu và trong khả năng đảm bảo
là có tình trạng cạnh tranh trong phạm vi chính trị và ngoại giao.
Trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lằn ranh phân định được định nghiã qua các lực lượng
quân sự. Trong thời kỳ hiện đại, lằn ranh không nên được định nghiã chủ yếu là
do sự phối trí bằng quân sự. Thành tố quân sự không nên được quan niệm như là một
định nghiã duy nhất hay chính yếu cho tình trạng quân bình. Chuyện nghịch lý là
khái niệm về quan hệ đối tác cần có một thành tố của tình trạng quân bình mới
cho cán cân của quyền lực, đặc biệt là tại châu Á, – một đường lối nếu áp dụng
như nguyên tắc bao quát -, sẽ là khái niệm quan trọng như chưa từng có trước
đây. Sự kết hợp về một chiến lược nhằm đem lại tình trạng quân bình trong cán
cân quyền lực với một sách lược ngoại giao về quan hệ đối tác sẽ không thể thay
đổi các khiá cạnh thù nghịch, nhưng nó có thể lảm giảm nhẹ tác động này. Trên hết,
sự kết hợp này sẽ đem lại cho những nhà lãnh đạo của Trung Quốc và Hoa Kỳ những
kinh nghiệm trong sự hợp tác xây dựng và mang đến cho hai xã hội một đường lối
xây dựng hướng tới một tương lai bình ổn hơn.
Một trật
tự luôn đòi hỏi về một tình trạng quân bình trong sự kiềm chế, sức mạnh và tính
chính thống với tất cả tinh tế. Tại châu Á, cần phải có sự kết hợp một tình trạng
quân bình trong cán cân quyền lực với một khái niệm về quan hệ đối tác. Một định
nghiã của tình trạng quân bình thuần túy về mặt quân sự sẽ chuyển dần sang một
tình trạng đối đầu. Một khảo hướng thuần túy về mặt tâm lý cho quan hệ đối tác
sẽ gây thêm lo sợ về nạn bá quyền. Giới lãnh đạo khôn ngoan phải cố tìm cách đạt
được tình trạng quân bình này. Ngoài tình trạng quân bình này ra, thì tai họa tất
sẽ đến.
_______
Bài
liên quan:
Bản Tổng Kết Của Một Cố Vấn: Phỏng Vấn Henry Kissinger Do
Christoph Amend Và Matthias Nass Thực Hiện
Giới
Thìệu Sách: Hồ Sơ tội trạng Của Henry Kissinger. Chistopher
Hitchens, The Trial of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001, 159
pp.
Book
Review Essay – Henry Kissinger – World Order: Reflections on the Character of
Nations and the Course of History, Penguin Press, 2014, 432 pp.
©
2015 Bản tiếng Việt Đỗ Kim Thêm
No comments:
Post a Comment